Thứ Năm, 30 tháng 12, 2010

Khả năng của truyện ngắn trong việc thể hiện con người (Tham Khảo)


ThS. Vũ Thị Tố Nga
Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Hải Phòng.

       
Truyện ngắn có nhiều khả năng trong việc thể hiện quan niệm về con người. Do dung lượng nhỏ, nắm bắt những nét bản chất nhất của cuộc sống,... truyện ngắn có khả năng chuyển tải những vấn đề của thời đại, con người, một cách chính xác nhạy bén. Cũng chính điều này đã khiến truyện ngắn trở thành thể loại cho phép nhà văn thử nghiệm và triển khai những khía cạnh mới mẻ, linh hoạt trong quan niệm nghệ thuật về con người.
Những day dứt của kiếp người nhiều khi lại thể hiện trong một anh kéo xe, trong một con điếm muốn tìm một khách làng chơi trong những phút giây cuối cùng của một năm (Ngựa người, người ngựa - Nguyễn Công Hoan); những ám ảnh về cuộc sống tù đọngnhiều khi không phải chỉ thể hiện ở những trí thức, mà nó trở thành nhức nhối trong những kiếp người bé nhỏ (Hai đứa trẻ - Thạch Lam)... Truyện ngắn đề cập đến nhiều loại người trong xã hội, gắn với mỗi loại người ấy là một vấn đề cần trăn trở, cần lưu tâm của cuộc sống nhân sinh. Anh trí thức có những vấn đề của anh trí thức; người nông dân có những vấn đề của người nông dân, kẻ lang thang có những vấn đề của kẻ lang thang... Truyện ngắn thường chớp lấy những khoảnh khắc của kiếp người, lại có thể chú trọng đến nhiều loại người, cho nên, những vấn đề thời sự, nổi cộm nhất của cuộc sống được nó nắm bắt một cách nhanh chóng, nhạy bén. Sự nhanh chóng nhạy bén này không chỉ thể hiện ở việc nắm bắt vấn đề, mà chỉ tính riêng đến thời gian để ra đời một truyện ngắn cũng có thể nói lên điều đó. Nhà tiểu thuyết phát hiện ra một vấn đề, nhưng để viết được một tiểu thuyết có dung lượng vừa phải, ít nhất nghệ sĩ phải mất một năm. Những vấn đề nóng hổi của thời đại, những cách nhìn nhận mới về con người loé lên trong đầu nhà văn, có thể nói, thời gian để quan niệm ấy hoá thân thành thế giới nghệ thuật sẽ không cần nhiều như tiểu thuyết. Đây là một đặc điểm gắn liền với báo chí của thể loại cỡ nhỏ này. Cùng thể hiện quan niệm con người khó mà hoà hợp được khi bước từ thời chiến vào thời bình, Bảo Ninh đã sử dụng đến dung lượng hàng trăm trang trong tiểu thuyết Thân phận tình yêu, còn Nguyễn Huy Thiệp chỉ cần dùng một truyện ngắn với dung lượng vài chục trang mà cũng không kém phần ấn tượng (Tướng về hưu)...
Truyện ngắn không chỉ nắm bắt một cách nhanh nhạy, mà còn thể hiện một cách ấn tượng và linh hoạt những khía cạnh trong quan niệm nghệ thuật về con người. Không phải là trong tiểu thuyết không xuất hiện những kiểu người như trong truyện ngắn, chỉ có điều những nhân vật đó xuất hiện với tư cách nhân vật phụ nên thường không gây được sự chú ý của người đọc, nhà văn không tập trung làm sáng tỏ những quan niệm mà loại nhân vật này có khả năng thể hiện. Những nhân vật phụ trong tiểu thuyết trở nên ấn tượng hơn, những quan niệm về con người được thể hiện trong những nhân vật đó trở nên sắc nét hơn khi đi vào truyện ngắn, bởi vì trong truyện ngắn, những nhân vật đó trở thành nhân vật chính, mọi chi tiết, sự kiện, ngôn từ chỉ tập trung làm sáng tỏ nhân vật đó, con người đó.
Truyện ngắn không chỉ tạo điều kiện cho nhà văn thể nghiệm và triển khai những khía cạnh mới mẻ, linh hoạt trong quan niệm nghệ thuật về con người mà còn tạo điều kiện khai thác khả năng đồng sáng tạo của độc giả. Đặt con người vào trong "tổng hoà các mối quan hệ xã hội", bên cạnh ý thức, nhân vật còn hiện diện cả phần nội tâm, tiềm thức và vô thức, các tác giả truyện ngắn đã khêu gợi ở người đọc cách lý giải, nhìn nhận con người. Truyện ngắn thường nêu ra các vấn đề của nhân sinh để người đọc tự suy ngẫm, lí giải theo quan niệm của riêng mình. Phương thức tồn tại đầy đủ nhất của tác phẩm văn học chính là tồn tại trong chủ quan tác giả, trong văn bản và trong sự tiếp nhận của độc giả. Khai thác sự đồng sáng tạo từ phía người tiếp nhận không chỉ tạo nên tính dân chủ trong tiếp nhận mà còn tăng sức nặng của những vấn đề được đặt ra. Những vấn đề nhà văn chỉ nêu lên sẽ lớn dần trong sự tiếp nhận. Người đọc không đơn giản là người tiếp nhận một cách thụ động mà còn là người tích cực chủ động tham gia cùng nhà văn vào việc nhìn nhận về con người, bổ sung những quan niệm của mình. Chính vì thế hình tượng nghệ thuật nói chung và quan niệm nghệ thuật về con người nói riêng trong truyện ngắn trở nên phong phú và sâu sắc hơn. Vấn đề đặt ra đối với sáng tác văn học nói chung không đơn giản là chuyện nhà văn viết cái gì, mà là chuyện nhà văn đã gợi lên được điều gì trong lòng độc giả sau khi đọc xong truyện đó. Truyện ngắn đã làm được điều này nhờ sức gợi của mình. Để tạo nên sức gợi, bên cạnh việc lựa chọn cách trần thuật, tác giả truyện ngắn cũng rất chú trọng đến lựa chọn những sự kiện, chi tiết thể hiện các khả năng có thể có của cuộc đời con người. Những số phận, những con người, những sự kiện phức tạp tự nó đã cho phép nhiều cách hiểu khác nhau. Truyện ngắn thường sử dụng cách trần thuật đầy ẩn ý, thường sử dụng các biểu tượng đa nghĩa. Chính điều này đã tạo nên tính hàm súc, cô đọng, chất thơ của thể loại, đồng thời phát huy khả năng đồng sáng tạo của độc giả trong việc đưa ra những quan niệm về con người, về cuộc sống nhân sinh. Người đọc sẽ luôn trăn trở về cách nhìn nhận con người cùng Nam Cao khi đọc Lão Hạc, Chí Phèo, Tư cách mõ...; sẽ luôn bị ám ảnh, và cùng Nguyễn Huy Thiệp suy nghĩ về con người khi đọc những truyện ngắn của ông như: Sang sông, Tướng về hưu, Không có vua...
Nếu đem so sánh một tác phẩm với một tác phẩm thì rõ ràng, khả năng phản ánh hiện thực đời sống, khả năng thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của truyện ngắn không thể bằng tiểu thuyết. Nhưng xét trên phương diện thể loại (bao gồm nhiều tác phẩm) thì truyện ngắn không hề thua kém tiểu thuyết trong lĩnh vực này. Như ta biết, mỗi truyện ngắn thường chỉ thể hiện một quan niệm nghệ thuật về con người; chẳng hạn, truyện Sang sông của Nguyễn Huy Thiệp yêu cầu chúng ta phải có cái nhìn khác về con người hiện nay, nhiều khi phải "đập tan bình cổ" để tiến đến một tương lai tươi sáng hơn, truyện Bức tranh của Nguyễn Minh Châu lại cho thấy bên trong con người luôn có cả rắn rết lẫn rồng phượng; truyện Đường Tăng của Hoà Vang quan niệm rằng, được làm người là ước mơ cao nhất của muôn loài, hạnh phúc của con người nơi trần thế mới là hạnh phúc đích thực; truyện Biến dạng(Hoá thân) của F. Kafka lại cho thấy sự bất lực của con người trong cuộc sống hiện tại... Như vậy, nhiều tác phẩm gộp lại, ta lại thấy truyện ngắn có khả năng thể hiện một cách khá toàn diện những cách nhìn nhận về con người. Cho nên, xét trên bình diện thể loại, khả năng thể hiện phong phú, đa dạng quan niệm nghệ thuật về con người của truyện ngắn là một thực tế.
Cũng cần phải khẳng định rằng, truyện ngắn tạo thuận lợi cho việc đưa ra những quan niệm nghệ thuật có tầm khái quát cao. Sở dĩ như vậy vì truyện ngắn thường "chớp lấy cái thần thái" của nhân vật. ẩn sau mỗi sự kiện, chi tiết, nhân vật của truyện ngắn, bao giờ cũng là những ý tưởng hết sức sâu sắc. Người đọc có cảm giác như người viết truyện ngắn có sẵn trong đầu những quan niệm (tất nhiên, những quan niệm này cũng được rút ra từ sự quan sát thực tế), rồi tìm những cảnh đời phù hợp với quan niệm ấy. Đọc truyện ngắn, người đọc phải đi ngược lại tiến trình sáng tạo để tìm đến những quan niệm sâu sắc được nhà văn gửi gắm kín đáo. Nhiều triết lí được đưa ra trong truyện ngắn (nhất là truyện rất ngắn), ta có cảm giác như nó gần gũi với những bài học được rút ra từ truyện ngụ ngôn. Chẳng hạn truyện Bé yêu của L. Corxinxki (Nga), truyện Lời nói tình yêu của B. Laxkin, Sự biến hoá kì diệu của R. Kazkova... Nhà văn càng ít miêu tả, thuyết minh cụ thể, chi tiết, thì sức khái quát càng cao. ở một mức độ nào đó, truyện ngắn gần với thơ trữ tình. Đó chính là tính cô đúc, hàm súc, nói ít gợi nhiều. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ và truyện ngắn đều đạt tính khái quát xã hội cao nhưng truyện ngắn và thơ trữ tình vẫn có những nét riêng trong những khái quát về con người. Có thể nói truyện ngắn là thể loại tạo điều kiện để người sáng tác không ngừng vươn tới giới hạn tối đa trong cách hiểu con người.
Truyện ngắn có nhiều khả năng độc đáo nhưng nó cũng có không ít những giới hạn trong việc thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người.
Trước hết, do phải đảm bảo dung lượng "ngắn", thể loại này chỉ có thể "nêu" lên những quan niệm nghệ thuật về con người. Tức là truyện ngắn, không cho phép lí giải, phân tích, chứng minh, triển khai một cách dài hơi những quan niệm được nhà văn đưa ra. Với một quan niệm nghệ thuật về con người, nhà văn chỉ được phép thể hiện nó trong số lượng chi tiết, nhân vật, sự kiện hết sức hạn chế. Điều này càng bộc lộ rõ trong truyện rất ngắn - một biến thể của truyện ngắn. Truyện Làng gần nhất của F. Kafka thể hiện quan niệm về sự ngắn ngủi của cuộc đời, sự bất lực của con người bằng số lượng chữ cực kì hạn chế (chưa đầy 100 chữ khi được dịch ra tiếng Việt), bằng duy nhất một sự kiện, trùng khít với số chữ: "thật khó hiểu nổi vì sao một chàng trai lại có thể quyết định đi ngựa tới làng gần nhất mà không e ngại - cứ cho là không gặp tai nạn gì đi nữa - rằng một kiếp sống bình thường và trôi chảy, cũng khó mà đủ cho cuộc du lãm ấy". ở một phương diện nào đó, đặc điểm này tạo nên tính khái quát cao cho những quan niệm nghệ thuật về con người được nêu lên trong truyện ngắn, phát huy được khả năng đồng sáng tạo ở độc giả, nhưng mặt khác nó cũng gây trở ngại không nhỏ đối với sự tiếp nhận - nếu người đọc không tinh, không có nhiều kinh nghiệm nghệ thuật, kinh nghiệm cuộc sống, không có sự liên tưởng phong phú... thì hiệu quả của truyện ngắn sẽ không được phát huy đến mức tối đa. Đừng nên nghĩ rằng truyện có dung lượng nhỏ là sẽ dễ đọc hơn tiểu thuyết. Chỉ riêng việc tiếp cận thế giới nghệ thuật, nếu nhà văn sử dụng ít chi tiết, ít sự kiện, viết theo lối nói ít gợi nhiều đã gây khó khăn rất lớn cho người đọc. Tiếp cận những quan niệm của nhà văn về con người - nội dung nghiêng về triết lí, tư tưởng sâu xa - trong thể loại này càng khó hơn rất nhiều. Có nhiều người đã thừa nhận truyện ngắn đích thực không chỉ khó viết mà còn khó đọc. Như vậy, truyện ngắn đã gây không ít khó khăn cho nhà văn trong việc thể hiện cụ thể, chi tiết quan niệm nghệ thuật về con người; đồng thời cũng gây khó khăn cho độc giả trong việc tiếp nhận vấn đề đó. Nếu nhà văn non tay, sẽ dễ làm cho ý tưởng của mình bị lộ liễu, thiếu sức hấp dẫn.
Cũng chính vì chỉ cho phép nhà văn "nêu" quan niệm, nên truyện ngắn hạn chế trong việc thuyết phục toàn diện độc giả. Trong tiểu thuyết, để làm sáng tỏ một quan niệm, nhà văn được phép sử dụng một khối lượng chi tiết, nhân vật, sự kiện khổng lồ với nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau. Khó ai có thể phủ nhận được quan niệm: trong xã hội tư sản, con người trở thành nô lệ cho đồng tiền, tính cách con người bị thay đổi theo sự thay đổi của môi trường sống khi đọc những tiểu thuyết của O. Bazăc. Người đọc cũng bị chinh phục bởi quan niệm cuộc đời, con người trên thế gian này thật là phi lí khi đọc Người xa lạ của A. Camus... Sở dĩ như vậy, vì trong tác phẩm, có rất nhiều chi tiết cùng tập trung thể hiện vấn đề đó - một sự việc, một hành động, một số phận chưa đủ sức thuyết phục, thì đã có những sự việc khác, hành động khác, số phận khác hỗ trợ. Trong khi đó, phần lớn truyện ngắn chỉ có một sự kiện chính với số chi tiết, số nhân vật hạn chế. Truyện ngắn mạnh về sức gợi nhưng lại hạn chế trong việc thuyết phục toàn diện.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, những khả năng của truyện ngắn được phát huy và những hạn chế được khắc phục ở mức độ khác nhau, gắn với những quan niệm nghệ thuật khác nhau về con người. Sau 1975, trong giai đoạn mới, truyện ngắn đã phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực con người một cách nhanh nhạy và sắc bén. Với đặc trưng cơ bản của thể loại, truyện ngắn đã tạo cơ sở cho sự biểu hiện những thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người. Có thể nói chưa bao giờ trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng, con người lại được khai thác ở nhiều chiều kích và bình diện đến vậy. Tiếp cận với thế giới nhân vật trong các sáng tác, người đọc như được tiếp xúc với những con người có thực ở ngoài đời, cũng sinh động, phong phú và không kém phần phức tạp. Với ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, truyện ngắn góp phần làm cân bằng hài hoà trở lại cách nhìn nhận con người về mặt cộng đồng tập thể của giai đoạn văn học trước./.


Tạp chí Nghiên cứu Văn học sô 5/2006

Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian những năm gần đây


PGS.TS Nguyễn Thị Huế
Phòng Văn học dân gian - Viện Văn học

       
Trước nay, văn học dân gian đóng một vai trò rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển nền văn học của dân tộc; nghĩa là sáng tác dân gian luôn là cơ sở nền tảng vững chắc và là cốt lõi của văn học thành văn, văn học viết... Việc nghiên cứu văn học dân gian của chúng ta trong nhiều thập kỷ qua vẫn không ngừng được tiến hành và phát triển; Văn học dân gian đã là đối tượng quan tâm của nhiều thế hệ các nhà khoa học và những thành tựu đạt được về lĩnh vực nghiên cứu này rất đáng ghi nhận. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu tiến trình phát triển của nền văn học dân gian trên cơ sở nghiên cứu sự ra đời của các thể loại văn học dân gian; Tiến hành việc phân loại và nhận diện các thể loại, xem xét đặc trưng và tính chất, nội dung và hình thức của chúng; Tìm hiểu mối quan hệ, ảnh hưởng giữa văn học dân gian và văn học thành văn trong từng giai đoạn, từng thời kỳ; Tìm hiểu mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn nghệ dân gian và văn hoá dân gian, văn học và văn hoá học.
Nhìn chung, trong khoa nghiên cứu văn học dân gian và khoa nghiên cứu folklore, những vấn đề trên đã được đặt ra, song hầu như chưa được tiến hành đồng bộ và chuyên sâu, trong đó nhiều vấn đề mới chỉ là những bước gợi mở  ban đầu.
Việc nghiên cứu tiến trình phát triển của văn học dân gian Việt Nam trên thực tế đã được xúc tiến thông qua việc xây dựng những bộ giáo trình về văn học dân gian; Có thể kể ra sau đây:
Lịch sử văn học Việt Nam, tập I: Văn học dân gian. Giáo trình Đại học Sư phạm, 1961 (Bùi Văn Nguyên và nhiều tác giả biên soạn).
Văn học dân gian Việt Nam, 1962. Giáo trình Đại học Tổng hợp (Đinh Gia Khánh - Chu Xuân Diên biên soạn).
Văn học dân gian Việt Nam, 2 tập, 1972-1973. Giáo trình Đại học Tổng hợp (Đinh Gia Khánh - Chu Xuân Diên biên soạn).
Văn học dân gian Việt Nam, 1990. Giáo trình Đại học Tổng hợp (Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ biên soạn).
Văn học dân gian, 2 tập, 1990-1991 (Tập 1: Đỗ Bình Trị biên soạn, Tập 2: Hoàng Tiến Tựu biên soạn).
Văn học dân gian Việt Nam, 1997 (Đinh Gia Khánh - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn biên soạn). Tái bản lần thứ 6, 2002.
Đồng thời là các chuyên luận của các nhà nghiên cứu như: Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, 1974 (Cao Huy Đỉnh) vàNghiên cứu tiến trình lịch sử văn học dân gian Việt Nam, 1978 (Đỗ Bình Trị) v.v...
Việc nghiên cứu các thể loại của văn học dân gian cũng được nhìn nhận song song với việc nghiên cứu tiến trình, với các chuyên luận như: Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám (1968) của Đinh Gia Khánh; Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam (1971) của nhiều tác giả; Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học (1987) của Chu Xuân Diên; Thi pháp ca dao (1992, tái bản 2004) của Nguyễn Xuân Kính; Truyện Nôm, bản chất và thể loại (1993) của Kiều Thu Hoạch; Cổ tích thần kỳ người Việt - đặc điểm cấu tạo cốt truyện (1994) của Tăng Kim Ngân; Truyện ngụ ngôn Việt Nam và thế giới (thể loại và triển vọng) (1993) của Phạm Minh Hạnh; Những thế giới nghệ thuật ca dao (1998) của Phạm Thu Yến; Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian Việt Nam (1999) của Đỗ Bình Trị; Thi pháp văn học dân gian (2000) của Lê Trường Phát;Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif (2001) của Nguyễn Tấn Đắc v.v...
Việc nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam cũng được xúc tiến với nhiều bài viết xuất sắc. Những công trình nghiên cứu chuyên sâu được ra đời vào những năm 80 của thế kỷ XX. Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam được đưa vào bộ Lịch sử văn học Việt Nam (Nxb. Khoa học xã hội, 1980) và được xuất bản thành các chuyên khảo như: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (trước Cách mạng tháng Tám 1945) của Phan Đăng Nhật (1981); Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam của Võ Quang Nhơn (1983) v.v... Truyện thơ và sử thi là hai thể loại của văn học dân gian các dân tộc đã được đặc biệt chú ý. Trong khoảng thời gian từ 1980 đến nay, đã ra đời một số các sưu tập và chuyên luận về truyện thơ và sử thi như: Truyện thơ Tày-Nùng (1964) của Nông Quốc Chấn; Truyện thơ Tày (1994-1995) của Triều Ân; Truyện thơ Tày. Nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại (2004) của Vũ Anh Tuấn; Đẻ đất đẻ nước - sử thi Mường (1988) của Đặng Văn Lung, Vương Anh, Hoàng Anh Nhân;Sử thi thần thoại M’ Nông (1996) của Đỗ Hồng Kỳ; Sử thi Ê đê (1991) của Phan Đăng Nhật; Vùng sử thi Tây Nguyên (1999) của Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian; Nghiên cứu sử thi Việt Nam (2001) của Phan Đăng Nhật v.v...
Còn rất nhiều các công trình khác với nhiều vấn đề của văn học dân gian Việt Nam đã được đặt ra(1). Song tựu chung chúng tôi muốn lưu ý tới các vấn đề sau đây:
1. Việc ứng dụng một số phương pháp nghiên cứu văn học dân gian và văn hoá dân gian của các nước trên thế giới.
Từ nửa sau của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đã hết sức nỗ lực nhằm du nhập và giới thiệu các phương pháp luận nghiên cứu văn học dân gian nước ngoài, và ứng dụng vào việc nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam. Trong khoảng vài thập kỷ, chúng ta về cơ bản được học tập và tham khảo những tác phẩm lý luận, những phương pháp nghiên cứu văn học dân gian nói riêng và folklore nói chung của các học giả nước ngoài, đặc biệt là các học giả Xô viết với những tên tuổi như Zirmunxki, Melêtinxki, Prốp, Riptin, Xakhanôp, Anhikin, Nôvicôva... Những tác phẩm của họ đã được dịch và giới thiệu ở Việt Nam như: Sáng tác thơ ca dân gian Nga, A.M. Nôvicôva (Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983); Nhân vật cổ tích thần kì. Xuất xứ của hình tượng, E.M. Melêtinxki (Nxb. Văn học phương Đông, Mátxcơva, Tài liệu dịch Viện Văn học); Phương pháp loại hình học trong văn học dân gian và mối liên hệ với các trường phái thế kỉ XIX, Lê Chí Quế (Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3-1986); Quá trình hoàn thiện lí luận về loại hình học trong khoa văn học dân gian mácxít, Lê Chí Quế (Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3-1987); Nghiêncứu cấu trúc và nghiên cứu lịch sử về truyện cổ tích thần kì, Prốp (Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3-1989); Cuốn “Những căn rễ lịch sử của truyện cổ tích thần kì” của Prốp và ý nghĩa của nó đối với việc nghiên cứu hiện nay của truyện cổ tích, V.I. Eremina (Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1-1991); Lý thuyết hình thái học của V.Ia. Prốp và truyện cổ tích thần kỳ của người Việt (Trần Đức Ngôn, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3-1991); Các trường phái nghiên cứu truyện cổ dân gian trên thế giới, Jan-Ojvind Swahn (Tạp chí Văn học, số 1-1996); Hình thái học truyện cổ tích và “Những căn rễ lịch sử của truyện cổ tích thần kỳ”, Tuyển tập V.Ia. Prốp (Nxb. Văn hoá dân tộc và Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, H, 2003-2004)...
Những tác phẩm lý luận của các tác giả nói trên đã có một tác động to lớn giúp các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam nhìn nhận các tác phẩm văn học dân gian từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động, từ một chiều tới đa chiều, từ một nghĩa trên văn bản ghi chép đến nhiều nghĩa trong đời sống tồn tại thực của tác phẩm. Đội ngũ các nhà nghiên cứu văn học dân gian trước đây từ một vài tên tuổi như Nguyễn Văn Ngọc, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi… Sau vài chục năm họ đã đông đảo về số lượng, nâng cao về chất lượng và trình độ, trong đó có nhiều người có học hàm, học vị được đào tạo từ nước ngoài (Nga và các nước châu Âu, Mỹ v.v...) và hiện nay được đào tạo chủ yếu ở trong nước. Bằng những phương pháp nghiên cứu mới, cập nhật họ đã có được những công trình, những chuyên luận khoa học đóng góp cho khoa nghiên cứu văn học dân gian, tạo cho chuyên ngành này có được những khởi sắc mới(2).
2. Mối quan hệ giữa văn học dân gian và folklore.
Trong những thập niên gần đây, đã diễn ra sự thay đổi mạnh mẽ trong nghiên cứu văn học dân gian nước ta, do có sự mở rộng trong quan niệm về văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hoá dân gian, với folklore. Các nhà nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian Việt Nam đã không chỉ đơn thuần tập trung nhìn nhận yếu tố ngôn từ của tác phẩm dân gian mà chú ý tới các yếu tố phi ngôn từ khác, các điều kiện tồn tại, diễn xướng trong đời sống văn hoá của nó, đặt tác phẩm văn học dân gian trong quan hệ với văn hoá dân gian. Hướng tiếp cận các tác phẩm văn hoá dân gian theo folklore học bao gồm các phương diện như ngữ văn dân gian, nghệ thuật dân gian, tri thức dân gian, tín ngưỡng, phong tục và lễ hội. Cách tiếp cận này mang tính tổng thể của văn hoá học. Nhiều công trình lí luận của ngành folklore đã được xuất bản, góp phần làm rõ mục đích, đối tượng nghiên cứu và nhiệm vụ đặt ra đối với khoa nghiên cứu folklore. Đó là các công trình như: Văn hoá dân gian - những lĩnh vực nghiên cứu (Nhiều tác giả, Viện Văn hoá dân gian, Nxb. Khoa học xã hội, 1989); Văn hoá dân gian - những phương pháp nghiên cứu (Nhiều tác giả, Viện Văn hoá dân gian, Nxb. Khoa học xã hội, 1990); Trên đường tìm hiểu văn hoá dân gian (Đinh Gia Khánh, Nxb. Khoa học xã hội, 1989); Quan niệm về folklore (Ngô Đức Thịnh chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 1990); Dẫn luận nghiên cứu folklore Việt Nam (Vũ Ngọc Khánh, Sở Giáo dục Thanh hóa xuất bản, 1991); Văn hóa dân gian mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại (Chu Xuân Diên, Nxb. Giáo dục, 2001).
Những phương pháp luận nghiên cứu folklore như chức năng luận, cấu trúc luận, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp v.v.. được đặc biệt chú ý và được giới thiệu bởi những nhà nghiên cứu văn học dân gian thuộc thế hệ được đào tạo ở một số nước như Mỹ, Pháp, Nhật, úc v.v.. Trên Tạp chí Văn học, Tạp chí Văn hoá dân gian đã đăng những bài viết giới thiệu những phương pháp nghiên cứu folklore ở các nước phương Tây và sự ứng dụng các phương pháp đó ở Việt Nam. Đấy là những bài như: Những bước tiến mới của lý luận nghiên cứu văn hoá dân gian trong những năm qua (Nguyễn Thị Huế, Tạp chí Văn học, số 2-1994); Quan niệm mới về folklore và quá trình văn bản hoá ở Hoa Kỳ (Nguyễn Thị Hiền, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 4-1999); Một số phương pháp nghiên cứu folklore ở phương Tây (Nguyễn Thị Hiền, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3-2000); Tái định hướng thể loại folklore (Trần Thị An, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 1-2005) v.v... Trong đó các tác giả đã giới thiệu những phương pháp nghiên cứu folklore như:Phương pháp khôi phục lại lịch sử của anh em Grim; Phương pháp thần thoại Anh thế kỷ XIX của Max Muller; Tiến hoá luận của Edward Taylor, Andrew Lang; Phương pháp lịch sử - địa lý Phần Lan; Phương pháp nghiên cứu folklore theo hệ tư tưởng; Chức năng luận; Phân tâm học; Cấu trúc luận; Phương pháp tiếp cận folklore theo bối cảnh diễn xướng v.v...
Trong khi ra đời khoa nghiên cứu văn hoá dân gian (folklore học) thì khoa nghiên cứu văn học dân gian với qui phạm riêng của mình vẫn tồn tại - văn học dân gian vừa là đối tượng nghiên cứu, giảng dạy ở trường phổ thông, trường Đại học, vừa được nghiên cứu ở các Viện nghiên cứu với tư cách là một thành tố của văn học dân tộc (như ở Viện Văn học) và vừa với tư cách là một thành tố của văn hoá dân gian (như ở Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian, nay là Viện Nghiên cứu Văn hoá)(3).
Đó là lý do tồn tại của khoa nghiên cứu văn học dân gian.
3. Mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết:
Trên Tạp chí Văn học nay là Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Tạp chí Văn hoá dân gian, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật và một số các tạp chí chuyên ngành khác, một số bộ giáo trình ở bậc đại học, một số chuyên luận… các nhà khoa học đã có những bài viết, những chương viết đề cập đến từng khía cạnh của những vấn đề trên. Nhưng phần lớn các công trình còn giới hạn ở những phạm vi nhất định. Chẳng hạn, vấn đề quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết, nhiều tác giả của nhiều bài viết thường mới chỉ quan tâm chú ý nhiều đến những dấu hiệu tồn tại vật chất của hình thức của ngôn ngữ văn học dân gian trong các tác phẩm văn học. Đó là việc nghiên cứu xem xét về cách sử dụng tục ngữ, ca dao, dân ca, sử dụng các mô típ, hình ảnh của tác phẩm văn học dân gian vào các sáng tác của các nhà văn v.v... Thí dụ như những bài viết sau đây: ảnh hưởng qua lại giữa Truyện Kiều và thơ ca dân gian (Vũ Ngọc Phan, Tạp chí Văn học, số 12-1965); Bàn về yếu tố dân gian trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Bùi Văn Nguyên, Tạp chí Văn học, số 11-1968); Thể lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều (Nguyễn Văn Hoàn, Tạp chí Văn học, số 1-1974); Nguyễn Đình Chiểu và văn học dân gian (Đặng Văn Lung, Tạp chí Văn học, số 4-1982); Tìm hiểu những hình thức biểu hiện của tục ngữ, ca dao, dân ca trong thơ ca Việt Nam hiện đại (Võ Quang Trọng, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3-1987); Một vài đặc điểm của truyện cổ tích văn học trong mối quan hệ với thể loại truyện cổ tích dân gian (Võ Quang Trọng, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 2-1995); Vai trò của truyện kể dân gian đối với sự hình thành các thể loại tự sự trong văn học Việt Nam (Kiều Thu Hoạch, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1+2/1998); Ảnh hưởng của thần thoại và cổ tích trong cách xây dựng nhân vật văn xuôi hôm nay (Bùi Thanh Truyền, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 5-2001) v.v...
Những bài viết này đã chỉ ra được những biểu hiện mang tính quy luật, tính hệ thống của những thể loại, của những tác phẩm cụ thể, thể hiện sự ảnh hưởng của văn học dân gian tới văn học thành văn từ văn học của thời kỳ cổ điển, trung đại đến văn học hiện đại. Tuy nhiên vẫn còn thiếu những bài viết mang tính khái quát, những vấn đề thuộc về lý luận và phương pháp luận nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học thành văn và văn học dân gian cần được tiếp tục xem xét một cách hệ thống. Đó là những vấn đề như xác định văn học dân gian đóng vai trò như thế nào trong việc xây dựng môi trường cụ thể của tác phẩm văn học; vấn đề nhân vật người kể chuyện dân gian trong tác phẩm văn học dân gian với vai trò người kể chuyện trong các tác phẩm văn học hiện đại; vấn đề phong cách và cấu trúc của các thể loại văn học dân gian đã ảnh hưởng đến phong cách và cấu trúc các tác phẩm văn học ra sao v.v(4)
4. Việc giảng dạy văn học dân gian trong nhà trường
Việc giảng dạy văn học dân gian trong nhà trường chính là công việc tổng kết, giới thiệu các thành tựu nghiên cứu đã có để truyền đạt lại cho lớp lớp các thế hệ học sinh, sinh viên. Công việc không đơn giản chút nào và công việc này đã luôn luôn đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ với việc nghiên cứu cơ bản về văn học dân gian, cập nhật những thông tin mới nhất để đưa vào bài giảng về văn học dân gian. Với việc giảng dạy văn học dân gian trong nhà trường, cùng với các bộ giáo trình, trong từng thời điểm khác nhau đã phản ánh sự bức thiết, những đòi hỏi của một khoa học chuyên ngành. Về cơ bản, việc giảng dạy một mặt dựa vào các giáo trình, song mặt khác cũng luôn luôn mới hơn, cập nhật hơn so với giáo trình, nhất là trong các chương trình, các đề tài hướng dẫn, đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ trong các trường đại học hiện nay.
Việc quan niệm văn học dân gian đồng nhất về bản chất với văn học thành văn chỉ xảy ra ở những giai đoạn giảng dạy đầu tiên ở bậc Đại học vào những năm 60 của thế kỷ XX, bởi đây là quan niệm của những nhà nghiên cứu văn học dân gian có xuất phát điểm từ việc nghiên cứu văn học viết(5).
Với những bộ giáo trình về văn học dân gian Việt Nam như vừa kể ở trên đã dần đưa đến một quan niệm, một hình dung ngày một rõ nét hơn về sự phát triển, về một tiến trình lịch sử của nền văn học dân gian Việt Nam. Nếu như đối với các nhà biên soạn giáo trình của Đại học Sư phạm những năm 60 của thế kỷ XX việc đánh giá, phân tích tác phẩm văn học dân gian vốn được xuất phát từ việc nghiên cứu văn học viết; thì đến các nhà biên soạn giáo trình Đại học của những năm 70, hệ thống quan niệm về văn học dân gian đã được đổi mới, văn học dân gian đã được xác định bởi những đặc trưng quan trọng, khác về bản chất so với văn học viết. Cụ thể như trong bộ giáo trình Văn học dân gian của Đại học Tổng hợp 1972-1973, đặc trưng của văn học dân gian được chỉ ra là: Văn học dân gian là hình thức của nghệ thuật không chuyên; Tính nhiều chức năng của văn học dân gian; Quan hệ của văn học dân gian với hoạt động thực tiễn; Môi trường sinh hoạt của văn học dân gian; Tính truyền miệng của văn học dân gian; Tính nguyên hợp về loại hình của văn học dân gian; Tính tập thể của văn học dân gian v.v... Các nhà biên soạn giáo trình đặt khái niệm văn học dân gian trong mối liên hệ và sự phân biệt với khái niệm “văn hoá dân gian”, khái niệm “văn nghệ dân gian”. Đồng thời khẳng định quan điểm “giữa thành phần ngôn ngữ với các thành phần nghệ thuật khác trong nội bộ văn học dân gian có mối quan hệ hữu cơ hết sức chặt chẽ, khiến cho văn học dân gian có vị trí đặc biệt trong nền văn hoá dân gian và trong hệ thống các loại hình nghệ thuật”(6).
Những quan điểm xác định văn học dân gian có tính độc lập, có đặc trưng, bản chất riêng, phân biệt với văn học viết đã đem đến sự cải tiến về phương pháp và nội dung giảng dạy văn học dân gian trong nhà trường và đặc biệt là ở bậc Đại học bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX.
Cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX, hầu hết các bộ giáo trình văn học dân gian đã ngày càng bổ sung và hoàn thiện hệ thống lý luận về văn học dân gian. Văn học dân gian được nhìn nhận sâu sắc hơn bằng việc phân kỳ những giai đoạn phát triển (tất nhiên với những khoảng thời gian lớn), bằng việc xác định hệ thống các thể loại, bằng việc đặt văn học dân gian trong mối quan hệ tổng thể với văn hoá dân gian, bằng việc mở ra bộ môn nghiên cứu văn học dân gian các dân tộc ít người trong khoa nghiên cứu văn học dân gian, phản ánh sự phong phú và đa dạng của nền văn học đa dân tộc Việt Nam v.v...
Quan điểm đặt văn học dân gian trong mối liên quan chặt chẽ với văn nghệ, văn hoá dân gian và đời sống thực tiễn đã giúp đưa các yếu tố văn hoá khác (như âm nhạc, nhảy múa, diễn xướng, tâm linh…) ngoài yếu tố ngôn từ vào bài giảng. Đây chính là việc giảng dạy văn học dân gian được đặt trong tổng thể văn hoá dân gian, đã tạo ra sự đổi mới quan trọng và nhằm đem đến một hiệu quả mới trong giảng dạy, học tập.
*
Trên đây là một số vấn đề mà khoa nghiên cứu văn học dân gian trong mấy chục năm qua đã đặt ra và đang có những bước trải nghiệm. Lịch sử của khoa nghiên cứu văn học dân gian đã qua một thời gian dài với nhiều giai đoạn phát triển. Đội ngũ những người làm công tác nghiên cứu văn học dân gian chắc chắn sẽ ngày càng có điều kiện tiếp cận được những phương pháp nghiên cứu tiên tiến, mang tính thời đại và cập nhập với thế giới để nghiên cứu văn học dân gian một cách hiệu quả hơn, khai thác và phát huy những mặt tích cực của văn học dân gian đối với văn học dân tộc, khẳng định vai trò và vị trí của văn học dân gian trong nền văn hóa nước nhà.
Sự ra đời của khoa nghiên cứu văn học dân gian, nghiên cứu văn hoá dân gian với tư cách một ngành khoa học độc lập chuyên sâu là thành tựu quan trọng và là bước tiến của khoa học xã hội thế kỷ XX. Ngành nghiên cứu văn học dân gian đã đạt được những thành tích đáng kể về mọi mặt: sưu tầm, nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo đội ngũ... hàng nghìn tác phẩm văn học dân gian của các dân tộc Việt Nam thuộc các thể loại đã được sưu tầm và xuất bản, hàng trăm các công trình nghiên cứu, các bài báo xuất sắc đã được công bố, hàng chục bộ giáo trình (Cao đẳng và Đại học) về văn học dân gian đã được biên soạn.
Có thể nói, trong những thập kỷ qua, công việc nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian đã có một quá trình tìm tòi đổi mới không ngừng với nội dung ngày càng phản ánh đúng đắn đặc trưng, tính chất và tiến trình phát triển của văn học dân gian Việt Nam. Với nhu cầu nghiên cứu hiện nay, khoa nghiên cứu văn học dân gian tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được và sẽ còn phát triển hơn nữa với những định hướng như: Đổi mới phương pháp nghiên cứu, xây dựng tư tưởng học thuật để tiếp cận đối tượng được tốt hơn, nhận rõ thực trạng để giải quyết đúng đắn các vấn đề đang đặt ra cho văn học dân gian, nhằm đạt tới những kết quả mới trong việc nghiên cứu văn học và văn hoá dân gian Việt Nam./.
_______________
(1) Xin xem: Một thế kỷ sưu tầm, nghiên cứu văn hoá văn nghệ dân gian (Nhiều tác giả), Nxb. Văn hoá thông tin, H, 2001.
(2) Nguyễn Xuân Kính: Nghĩ về công tác lý luận và nghiên cứu văn học dân gian, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 1-2005, tr.105.
(3) Nguyễn Xuân Đức: - “Cần có một cách tiếp cận thích hợp đối với văn học dân gian”, trong sách Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, Nxb. Khoa học xã hôi, H, 2003.
- “Cần đặt lại vấn đề khoa học luận văn học dân gian”, trong sách Thông báo văn hoá dân gian 2003, Nxb. Khoa học xã hội, H, 2004.
(4) Võ Quang Trọng: Vai trò của văn học dân gian Việt Nam trong văn xuôi hiện đại Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, H, 1997.
(5) Trần Đức Ngôn: “Thế kỷ XX - văn học dân gian trong nhà trường xã hội chủ nghĩa”, trong sách Một thế kỷ sưu tầm, nghiên cứu văn hoá văn nghệ dân gian, Sđd, tr.328.
(6) Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn: Văn học dân gian Việt Nam, tái bản lần thứ 6, Nxb. Giáo dục, H, 2002, tr.8.


Tạp chí Nghiên cứu Văn học sô 1/2006

Nỗi sầu oán của người cung nữ (Trích "Cung oán ngâm khúc" - Nguyễn Gia Thiều)


PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn
Viện Văn học

       
Quê hương nhà thơ Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) ở thôn Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc (nay thuộc xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), thuộc một trung tâm Phật giáo cổ, từ ngàn năm xưa vốn nổi danh với cái tên Luy Lâu, về sau trở thành đình tổ của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi.
Một điều cần chú ý là không khí thời đại đã tác động mạnh mẽ tới đời sống tâm linh của Nguyễn Gia Thiều. Bản thân ông sinh ra và lớn lên vào giai đoạn tàn suy của cuộc hôn phối chính trị vua Lê - chúa Trịnh, ngay sau đó là Lê - Tây Sơn và cuối cùng là sự khẳng định vương triều Tây Sơn – Nguyễn Huệ. Rõ ràng trong hoàn cảnh xã hội tao loạn, trăn trở tìm đường thì mọi nguồn sáng tư tưởng đều có thể được vận dụng, hoặc để công kích nhau, hoặc để tổng hợp, chuyển hoá tới một hình thức cao hơn, hoặc dung hoà mong tìm đến sự an bài về mặt tư tưởng... Sống trong giai đoạn các tư trào tư tưởng có biểu hiện tìm đường “đua tiếng”, nhà nghệ sĩ ưu thời mẫn thế Nguyễn Gia Thiều không thể không lựa chọn một lời hoà giải đời sống tâm linh theo cung cách của mình. Trong sự va động nhiều chiều, một nguồn tư tưởng cốt lõi đã hấp dẫn, tạo được sự đồng cảm sâu sắc nơi ông chính là Phật giáo. Xem xét toàn bộ tác phẩm Cung oán ngâm khúc sẽ thấy cảm quan Phật giáo bộc lộ trước hết ở tần số xuất hiện đậm đặc các từ ngữ, thuật ngữ phản ánh quan niệm đời sống nhà Phật như nước dương, lửa duyên, bể khổ, bến mê, bào ảnh, mối thất tình, tuồng ảo hoá, kiếp phù sinh, cơ thiền, cửa Phật, hoa đàm đuốc tuệ, túc trái, tiền nhân hậu quả...
Ở đây, trong giới hạn cụ thể của đoạn trích Cung oán ngâm khúc (câu 209-244) trong sách Ngữ văn 10 - Nâng cao, Tập II (Nxb. Giáo dục, H, 2006) lại thấy Nguyễn Gia Thiều thể hiện sâu sắc tâm trạng người cung nữ đang cô đơn, thất vọng, chán chường đến tận cùng. Tâm trạng sầu oán đi từ cảm giác đơn độc trước thời gian tàn tạ, mênh mang "thức ngủ thu phong", "chiều ủ dột", "chiều nhạt vẻ thu", "giá đông", trống trải trước không gian "trong cung quế âm thầm chiếc bóng", "phòng tiêu lạnh ngắt như đồng", "thâm khuê vắng ngắt như tờ", "tin mong nhạn vắng", "tiếng lắng chuông rền", không còn tìm thấy đâu niềm vui trong cuộc sống đời thường "tranh biếng ngắm", "mắt buồn trông", "buồn mọi nỗi", "ngán trăm chiều" và dẫn đến nỗi niềm thương thân, trách giận số phận, trách giận thực tại: Hoa này bướm nỡ thờ ơ... Đang tay muốn dứt tơ hồng - Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra...
Bên cạnh sự nhạy cảm với biểu tượng mùa thu thì bóng đêm cũng đã trở thành nỗi ám ảnh nặng nề, thê lương, ảm đạm trong tâm tư người cung nữ:
         - Đêm năm canh trông ngóng lần lần
         - Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ
         - Đêm năm canh, tiếng lắng chuông rền
         - Lạnh lùng thay giấc cô miên,
         - Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.
         - Đã than với nguyệt lại rầu với hoa
         - Đêm năm canh lần nương vách quế,
         Cái buồn này ai dễ giết nhau.
 Rõ ràng thời gian ở đây tự thân đã bao hàm nỗi cô đơn, trống vắng, thời gian chìm trong giấc ngủ cô đơn (hay giấc ngủ cô đơn chìm trong dòng thời gian lạnh lùng vô vọng), thời gian kết tụ không hề có hoạt động của con người mà chỉ là khung cảnh một bức tranh tĩnh vật Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u. Đặc điểm đó tạo nên tính đối lập sâu sắc giữa thời gian hiện tại và thời gian quá khứ, giữa hiện thực hôm nay và mơ tưởng về một thời xa xôi tạo nên những nghịch lý khi thấy thời gian qua nhanh - thời gian "vô cảm", khi khác lại thấy thời gian trôi quá chậm - thời gian "chết mòn". Toàn bộ những trạng thái cảm xúc về thời gian đó vừa mâu thuẫn vừa thống nhất với nhau bởi chúng là sản phẩm của cùng một hoàn cảnh, khác chăng là ở sự phân hoá các trạng thái tâm lý, tình cảm. Đến một mức độ nhất định, nội dung trữ tình đó đã thông qua sự cảm nhận về thời gian mà lên tiếng kết án kẻ đã dồn con người vào tình thế cô đơn, bế tắc, mất hết mọi nguồn vui:
                     Đêm năm canh lần nương vách quế,
                     Cái buồn này ai dễ giết nhau.
                     Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
                     Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!
Trên phương diện nghệ thuật, cách thức cảm nhận và biểu hiện thời gian tâm trạng đặc biệt có ý nghĩa trong việc mô tả nỗi lòng người cung nữ và những nhận thức về xã hội, nhân sinh. Toàn bộ những khối mâu thuẫn đó đã được chuyển đổi thành nghịch lý trong sự biểu hiện thời gian tâm trạng, thời gian nghệ thuật: con người luôn mơ tưởng về quá khứ chứ không phải về tương lai; hy vọng về tương lai chỉ là vòng khép trở về với quá khứ, mong được như thời quá khứ.
Trên tất cả là sự hiện hình tâm trạng con người cá nhân chỉ còn biết cô đơn sống với "chiếc bóng", "một mình", "hoa này", "cái buồn này", "xe thế này có dở dang không?", một cá nhân tự ý thức về "con người thừa", sự vô vọng, đánh mất bản ngã và nỗi buồn hàm chứa những nuối tiếc, bực dọc, day dứt, bất bình:
- Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa.
- Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhị vàng.
Có thể nói thêm rằng, thấp thoáng đằng sau tiếng nói bi kịch của người cung nữ là ý thức phản kháng, tố cáo chế độ cung nữ, mơ hồ nghĩ về quyền sống làm người, quyền được hưởng hạnh phúc và ước vọng một cuộc đổi thay:
                      Đang tay muốn dứt tơ hồng,
                 Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!
Xét trên phương diện ngôn từ nghệ thuật, đoạn thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt và điển tích khiến từng câu thơ trở nên hàm súc, uyên bác, trang trọng. Tác giả khai thác lối thơ song thất lục bát uyển chuyển, sinh động, tạo nên nhịp điệu gợi cảm, bâng khuâng man mác. Từng đôi câu thơ thất ngôn (bảy chữ) tạo nên thế đăng đối kết hợp với thể thơ lục bát truyền thống thường kết thúc ở câu thứ tám với những thanh bằng ngân vang, bâng khuâng, day dứt. Mặt khác, với đoạn thơ chỉ có 36 câu nhưng số lượng những tính từ thể hiện sắc thái tình cảm xuất hiện đậm đặc: âm thầm, lạnh ngắt, ủ dột, bâng khuâng, vẩn vơ, vắng ngắt, chiều nhạt, lạnh lùng, tịch mịch, thâm u, khắc khoải, ngẩn ngơ, thờ ơ... Tất cả những điều đó làm nên hình thức nghệ thuật mang âm hưởng buồn thương, phản ánh sâu sắc nỗi sầu oán của người cung nữ trước cuộc đời và sự ý thức về thân phận con người cá nhân, qua đó là khát vọng đòi quyền sống và sự khẳng định những giá trị nhân văn cao cả.
Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều không chỉ là tác phẩm tiêu biểu bậc nhất cho thể loại ngâm khúc mà đồng thời cũng là tác phẩm xuất sắc trong nền văn học dân tộc giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX, có vị trí quan trọng trong chương trình giảng dạy từ bậc phổ thông tới ngành văn các trường cao đẳng và đại học. Viết Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều không chỉ viết riêng về cuộc đời bất hạnh của người cung nữ mà thông qua đó bộc lộ những phẫn uất, bất bình của mình trước xã hội đương thời. Tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều lớn lao bởi chính tác giả đã cảm nhận được nỗi đau của thời đại, gián tiếp phát hiện và khẳng định quyền được sống, được hưởng mọi hạnh phúc của người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này. Có thể nói, ý nghĩa thanh lọc, ý nghĩa nhân bản của thi phẩm Cung oán ngâm khúc cũng ở chính sự hiện diện con người nhà thơ như một nhân cách lịch sử, một tâm trạng bi kịch, trở thành biểu tượng cho khát vọng nhân văn và những nỗi khắc khoải của cả một xã hội đang đòi hỏi cần được đổi thay, phát triển./.


Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 12/2006

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm)


PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn
Viện Văn học

       
Trên thực tế, ngoại trừ giới nghiên cứu chuyên sâu, bạn đọc thường không mấy ai chú ý đến nguyên tác Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn - quê làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì (nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội) mà chỉ biết tới bản diễn Nôm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748), người làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Hưng Yên).
Tương đồng với Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều trên phương diện khẳng định những giá trị nhân văn và phản ánh số phận người phụ nữ cũng như khả năng vận dụng nhuần nhuyễn thể loại ngâm khúc và thể thơ song thất lục bát, song bản diễn NômChinh phụ ngâm lại có phần giản lược những suy tưởng triết lý cao siêu và hướng nhiều hơn tới cuộc sống đời thường. Tâm tình người chinh phụ tiêu biểu cho nỗi nhớ mong chồng, khát khao cuộc sống gia đình bình dị và ước  mong về một ngày đoàn tụ vợ chồng. Đặt trong tương quan chung, ước mơ của người chinh phụ cũng hiền hoà, dung dị, gần gũi hơn so với người cung nữ. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cho thấy rõ tâm trạng cô đơn của người vợ nhớ chồng ra trận và nghệ thuật miêu tả tâm trạng bậc thầy của hai tác giả Đặng - Đoàn, trong đó phải kể đến nghệ thuật diễn Nôm đặc biệt xuất sắc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.
Tâm trạng nổi bật trong đoạn trích gồm 36 câu thơ trong tổng số 408 câu của toàn tác phẩm là sự thể hiện nỗi đơn côi, trống vắng của người chinh phụ. Trước hết đó là sự ý thức về con người cá nhân chiếu ứng trong các quan hệ với cảnh vật và con người, đặt trong tương quan với thời gian và không gian. Nhân vật chủ thể trữ tình - người chinh phụ xuất hiện như có như không, vừa tỉnh thức trong từng bước đi, từng động tác buông thả tấm rèm nhưng liền đó lại quên tất thảy, thờ ơ với tất thảy:
                             Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
                             Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Trong khổ thơ mở đầu (từ câu 1 - 16) có hai hình ảnh quan trọng được tô đậm, nhấn mạnh trở đi trở lại là tấm rèm và bóng đèn. Người chinh phụ "ngồi rèm thưa" mà trông ra ngoài ngóng đợi tin chồng nhưng chẳng thấy đâu. Cuộc sống nơi "trong rèm" chính là sự bó buộc, trói buộc trong một không gian chật hẹp, tù đọng. Câu thơ chuyển tiếp Trong rèm dường đã có đèn biết chăng càng tôn thêm vẻ vắng lặng, đơn côi, một mình chinh phụ đối diện với bóng mình, đối diện với người bạn vô tri vô giác Đèn có biết dường bằng chẳng biết và đi đến kết cuộc Hoa đèn kia với bóng người khá thương... Rõ ràng cuộc đời người chinh phụ hầu như đã mất hết sức sống, con người đã bị "vật hoá" tựa như  tàn đèn cháy đỏ kết lại đầu sợi bấc, con người bây giờ chỉ còn là "bóng người" trống trải, vừa đối xứng vừa đồng dạng và là hiện thân của chính kiếp hoa đèn tàn lụi. Ngay đến cảnh vật và sự sống bên ngoài cũng nhuốm vẻ tang thương, vô cảm, chập chờn bất định, không dễ nắm bắt với những "gà eo óc gáy sương", "hoè phất phơ rủ bóng"... Bên cạnh đó, dòng thời gian tâm lý cũng chuyển hoá thành sự đợi chờ mòn mỏi, thời gian đầy ắp tâm trạng đơn côi nhưng không có sự sống, không sự kiện, không thấy đâu bóng dáng hoạt động của con người:
                             Khắc chờ đằng đẵng như niên,
                             Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Trong sự chờ đợi, người chinh phụ thấy một khoảng thời gian ngắn mà dài như cả năm trường, mối sầu trào dâng như biển lớn mênh mang. Những trạng từ "đằng đẵng", "dằng dặc" tạo nên âm điệu buồn thương, ngân xa như tiếng thở dài của người thiếu phụ đăm đắm chờ chồng. Rút cuộc, hình bóng người chinh phụ có xuất hiện trở lại thì trước sau vẫn là nỗi chán chường, buông xuôi, vui gượng "Hương gượng đốt", "Gương gượng soi", "Sắt cầm gượng gảy" mà không sao che đậy nổi một hiện thực bất như ý "hồn đà mê mải", "lệ lại châu chan" và "Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng"...
Ở đoạn thơ tiếp theo (câu 17 - 28) là sự phản ánh nỗi lòng chinh phụ khi nhớ về người chồng. Có điều, nếu hình ảnh người chồng hiện diện như một ý niệm xa mờ thì bản thân nỗi nhớ mong cũng chỉ như một ảo giác. Sự gặp gỡ là điều không thể bởi tin tức mịt mờ, bởi khoảng cách về không gian, về địa danh có tính phiếm chỉ, biểu tượng của miền "non Yên", "đường lên bằng trời", "xa vời khôn thấu"... Các từ "thăm thẳm", "đau đáu", "thiết tha" gợi nhớ gợi thương, day đi dứt lại trong tâm can người chinh phụ. Sắc thái nỗi nhớ tăng tiến, rộng mở từ những suy tưởng dõi theo người chồng nơi phương xa đến sự dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa, đắng cay nối dài bất tận:
                             - Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
                             - Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Giống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?", người chinh phụ có lúc thấy cảnh vật vô hồn, thê lương nhưng có khi lại cảm nhận cả khoảng không gian và cảnh vật như đang hối thúc, giục giã, đổi thay, không tìm thấy đâu sự hô ứng, đồng cảm giữa tình người với thiên nhiên:
                             Cảnh buồn người thiết tha lòng,
                             Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
                             Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
                             Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.
Hình ảnh so sánh "sương như búa", "tuyết dường cưa" là sự cực tả những xao động của thế giới bên ngoài thông qua cách hình dung của chinh phụ, khi nàng bất chợt không còn chịu đựng nổi ngay cả vẻ bình dị đời thường và bột phát thành những ám ảnh dị thường. Đó là những tâm trạng khác biệt nhau cùng tồn tại trong một con người, sự phân thân trong cách cảm nhận về thiên nhiên, cuộc sống. Trong bản chất, chính tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã tạo nên những xung đột tình cảm khác biệt nhau và phổ vào thế giới tự nhiên tất cả những trái ngang, những thất vọng và cả niềm hy vọng mong manh, những giây lát yên tĩnh nhất thời và những cơn bão lòng dường như không thể nguôi khuây.
Bước vào đoạn cuối (câu 29 - 36), người chinh phụ vươn tới không gian  thoáng rộng hơn với những hàng hiên, ngọn gió, bóng hoa, ánh trăng nhưng đó cũng chỉ là thiên nhiên lạnh lùng, thiếu hẳn niềm tin và hơi thở ấm áp của sự sống. Cảnh vật như tách khỏi con người và không thấy đâu hoạt động của con người. Tất cả chỉ đơn thuần là cảnh vật và vì thế càng tôn thêm vẻ lạnh lùng, đối lập với tâm tư con người và hình ảnh nhân vật chinh phụ đang khuất lấp, ẩn chìm đâu đó:
                             Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
                             Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
                             Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
                             Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!
Đến hai câu thơ cuối bắt đầu hé mở tâm trạng so sánh. Người chinh phụ nhìn cảnh hoa nguyệt mà trạnh lòng bâng khuâng xót xa cho thân phận mình, tủi phận mình lẻ loi trước cảnh nguyệt hoa. Từ đây có thể nói tới những dự cảm về ý thức cá nhân của người chinh phụ và xa gần liên hệ tới quyền sống, quyền hưởng niềm vui, hạnh phúc lứa đôi giữa chốn nhân gian.
Trên phương diện nghệ thuật, thể thơ song thất lục bát với sự kết hợp hai câu thơ bảy chữ kiểu Đường thi hàm súc, trang nhã, đăng đối và câu thơ lục bát truyền thống giàu âm điệu, gợi cảnh gợi tình đã tạo nên nhịp thơ buồn thương man mác, nối dài không dứt. Quan sát kỹ có thể thấy từng bốn câu thơ đi liền nhau tạo thành một tiết đoạn, trong đó hai câu thất ngôn đóng vai trò khơi dẫn ý tứ, hai câu lục bát tiếp theo hướng tới luận bình, khai triển, mở rộng. Cứ như thế, các ý thơ, khổ thơ tiếp tục luân chuyển, nối tiếp nhau như những ngọn sóng cảm xúc đang trào dâng. Ngay trong từng câu thơ cũng xuất hiện những tiểu đối tạo nên tính chất hô ứng, đăng đối, tạo ấn tượng và sự nhấn mạnh:
                             - Dây uyên kinh đứt/ phím loan ngại chùng
                             - Cành cây sương đượm/ tiếng trùng mưa phun
                             - Sâu tường kêu vắng/ chuông chùa nện khơi
Thêm nữa, tác phẩm diễn Nôm bên cạnh việc giữ lại và Việt hoá được cả hệ thống điển tích và từ Hán Việt (non Yên, sắt cầm, dây uyên, phím loan, gió đông...) thì nhiều ý tứ trong nguyên tác đã được chuyển dịch, nâng cấp thành lời thơ thật sự giàu chất thơ. Chẳng hạn, với câu Sầu tự hải - Khắc như niên (nguyên ý nghĩa chỉ là Sầu tựa biển - Khắc như năm) đã được chuyển dịch thành câu thơ mang sắc thái nội tâm hoá, giàu cảm xúc, khơi gợi âm điệu cảm thương:
                             Khắc chờ đằng đẵng như niên,
                             Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Đoạn trích nói về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng như toàn bộ tác phẩm Chinh phụ ngâm là tiếng kêu thương của người phụ nữ chờ chồng, nhớ thương người chồng chinh chiến phương xa. Tình cảnh lẻ loi đó được chiếu ứng trong sự cảm nhận về thời gian đợi chờ đằng đẵng, không gian trống vắng vây bủa bốn bề và cuộc sống hoá thành vô vị, mất hết sinh khí. Trên tất cả là tâm trạng cô đơn và sự ý thức về thảm trạng mất đi niềm tin, đánh mất niềm vui sống và mối liên hệ gắn bó với cuộc đời rộng lớn. Trạng thái tình cảm đó một mặt có ý nghĩa tố cáo những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu người trai ra trận và hệ quả tiếp theo là bao nhiêu số phận chinh phụ héo hon tựa cửa chờ chồng, mặt khác xác nhận nhu cầu nói lên tiếng nói tình cảm và sự ý thức về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này. Không có gì khác hơn, đó chính là khả năng mở rộng diện đề tài, khai thác sâu sắc hơn thế giới tâm hồn con người, xác định nguồn cảm xúc tươi mới và khẳng định những giá trị nhân văn cao cả mà khúc ngâm đã đem lại, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai đoạn văn chương thế kỷ XVIII trong tiến trình phát triển chung của nền văn học dân tộc.


Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 11/2006

So sánh chuyện tình giữa Người và Hồn ma trong "Tiễn đăng tân thoại" và "Truyền kỳ mạn lục"


PGS.TS Đinh Thị Khang
Khoa Ngữ văn, Đại học Sư Phạm Hà Nội

        
Nhiều năm trở lại đây, có nhiều công trình nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục (TKML) trong so sánh với Tiễn đăng tân thoại (TĐTT). Mối quan hệ giữa hai tác phẩm được xác định là Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng nhiều từ sáng tác của Cù Hựu (do tiếp thu tình tiết, mô típ và bút pháp thể loại). Nhưng tập truyện truyền kỳ này vẫn thể hiện sức sáng tạo nghệ thuật của nhà văn tài năng họ Nguyễn. Với đề tài của mình, qua khảo sát những tác phẩm cụ thể, chúng tôi tìm hiểu thêm về những phương diện trên, mong muốn đi tới những nhận xét mới mẻ khác.
TKML của Nguyễn Dữ gồm 20 truyện ngắn. Tính chất và sự biến huyễn của thế giới lạ lùng tựa như không có thật ấy được thể hiện phong phú, đa dạng, sinh động qua từng thiên truyện. Nhóm tác phẩm viết về chuyện tình giữa người và hồn ma có một cốt truyện vừa lãng mạn vừa ly kỳ, quái đản.
I. Đặt trong so sánh với TĐTT, xét số lượng tác phẩm là đối tượng khảo sát, chúng tôi có kết quả sau đây: TĐTT có 5/20 truyện, chiếm tỉ lệ 25%; TKML có 3/20 truyện, chiếm tỉ lệ 15%. Tuy rằng số lượng có ít hơn so với TĐTT nhưng vẫn có thể thấy, đây là đề tài được Nguyễn Dữ quan tâm thể hiện(1).
Nội dung mỗi truyện viết về cuộc gặp gỡ, yêu đương giữa hai nhân vật chính. Trong cả 8 truyện (5 của TĐTT, 3 của TKML), các nhân vật nam đều là người, các nhân vật nữ đều là hồn ma hiện thành người. Viết về chuyện người gặp gỡ, yêu đương với ma; ăn ở, vui thú như vợ chồng với ma giữa cõi người, các tác giả đã đưa chuyện ảo, cảnh ảo xâm nhập thế giới người; đưa thế giới “phi hiện thực” hiện hữu trong thế giới hiện thực. Như vậy tính chất kỳ ảo của từng tác phẩm nằm ngay trong nội dung cốt truyện và hình thức “phi nhân” của một trong hai nhân vật chính.  
II. Khảo sát nội dung 5 truyện của TĐTT, chúng tôi nhận thấy có thể phân chia thành hai nhóm sau đây:
-  Nhóm 1, gồm bốn truyện: Kim phượng thoa ký, Đằng Mục tuý du Tụ Cảnh viên ký, Ái Khanh truyện, Lục y nhân truyện. Nội dung các truyện có thể khái quát như sau: Một chàng trai gặp mỹ nhân. Anh ta biết đấy là người đã chết nhưng vẫn cùng hồn ma yêu đương ân ái. Cả hai thoả mãn ước nguyện hạnh phúc. Đến kỳ hạn, âm dương ly biệt, (chỉ trừ Kim phượng thoa ký, chàng Hưng Ca lấy em gái Hưng Nương theo ước nguyện của nàng) các chàng trai không lấy vợ nữa để giữ tình chung thuỷ.
-  Nhóm 2, chỉ có Mẫu đơn đăng ký, viết chuyện chàng trai gặp mỹ nhân, mời nàng về nhà ngủ. Từ đó, nàng tối đến sáng đi. Có người biết chuyện cảnh báo, chàng đi tìm tung tích người tình, phát hiện mình dan díu với hồn người chết. Chàng sợ hãi chạy trốn nhưng vẫn bị ma quyến rũ rồi bị chết theo, cũng biến thành ma lang thang. Các hồn ma quấy phá nhân gian đã bị đạo sĩ yểm bùa, tiễu trừ. Phải chăng đây không phải là cảm hứng chính của Cù Hựu?
Cả ba truyện ở TKML (Tây viên kỳ ngộ ký, Mộc miên thụ truyện, Xương Giang yêu quái lục) đều có nội dung thuộc nhóm 2. Các truyện đều kết thúc bằng sự trừng phạt. Đặt trong so sánh với nhiều chủ đề khác, có thể  thấy rõ đây là chủ đề Nguyễn Dữ quan tâm với thái độ phê phán.
Từ sự lựa chọn type truyện dẫn đến lựa chọn hệ thống nhân vật của hai tác giả có sự khác nhau. Chúng tôi có bảng thống kê so sánh như sau.
Tác giả
Tác phẩm
Nhân vật
Nam
Nữ
CÙ HỰU
(1347 - 1433)
Kim phượng thoa ký
Người
có đính ước
Hồn ma
(vợ chưa cưới)
Đằng Mục tuý du
Tụ Cảnh viên ký
Nho sinh
Hồn ma
(duyên xưa)
Mẫu đơn đăng ký
Trai goá vợ
Hồn ma
(chết không có người nhận)
Ái Khanh truyện
Người
giàu có
Hồn ma (vợ)
Lục y nhân truyện
Nho sinh
Hồn ma
(người yêu)
NGUYỄN DỮ
( Thế kỷ XVI)
Tây viên kỳ ngộ ký
Nho sinh
Hồn cây, ma hoa
Mộc miên thụ truyện
Thương nhân
Hồn ma
lang thang
Xương Giang yêu quái lục
Quan lại
Hồn ma
lang thang
Như vậy, ở TĐTT chỉ riêng Kiều sinh (Mẫu đơn đăng ký), là trai goá vợ gặp hồn ma Lệ Khanh là người chết vô thừa nhận. Trong bốn truyện còn lại, các nhân vật nam dù là Nho sinh (Đằng Mục, Triệu nguyên) hay người giàu có (Hưng Ca, Triệu sinh) đều ít nhiều có ràng buộc tiền định với các hồn ma trong quan hệ hôn nhân (là chồng, chồng chưa cưới, ý trung nhân). Người và ma gặp lại nhau là để tiếp tục hoặc chính thức chung hưởng hạnh phúc lứa đôi cho thoả ước nguyện.
Nhân vật trong ba truyện của TKML lại có nét khác. Tất cả các hồn ma đều được xếp loại ma quái. Đào nương, Nhu nương là yêu hoa, ma cây thành tinh; Nhị Khanh, Thị Nghi là hồn người chết lang thang, đều không có ràng buộc với nam nhân trong truyện. Ba chàng trai thuộc ba hạng người cụ thể trong xã hội: Nho sinh, thương nhân, quan lại, là những đối tượng được quan tâm phản ánh trong nhiều truyện của TKML. Cả ba đều là kẻ ham nữ sắc bị yêu ma quyến rũ đắm chìm trong nhục dục.
Bước đầu, có thể nhận thấy sự lựa chọn nhân vật, xây dựng những mối quan hệ giữa các nhân vật là điểm hội tụ nội dung tác phẩm, là phương tiện nghệ thuật thể hiện quan niệm về con người, về xã hội của mỗi tác gi. Đây cũng là chỗ có nhiều điểm khác nhau trong cảm hứng nghệ thuật giữa Cù Hựu và Nguyễn Dữ(2)
III. Trở lại với những truyện thuộc nhóm 1 trong TĐTTBan đầu các chàng trai đều bị sắc đẹp của các cô gái quyến rũ. Nhưng rồi, dù nhanh hay chậm họ đều biết mỹ nhân là hồn ma nhưng không ai kinh sợ, mà vẫn tự nguyện gắn bó. Thực ra, trong cuộc đời không có ma hay có ma còn là chuyện nghi hoặc nhưng người trần gian ai cũng sợ ma. Người biết mình đang quan hệ với ma mà vẫn không từ bỏ là chuyện không có thật, chuyện phi lý, chuyện chỉ có trong tưởng tượng. Nhưng trong TĐTT, chuyện về hai nhân vật, một người, một hồn ma là cả câu chuyện yêu đương, chuyện vợ chồng. Cả hai đến với nhau bằng tình yêu thực sự, gắn với sự giao cảm của hai tâm hồn. Lúc đầu họ chỉ gặp nhau vào ban đêm. Một thời gian, tình yêu tuổi trẻ, quan hệ ân ái đã truyền sức sống, đem dương khí cho người đã chết. Hồn ma có cuộc sống trên thế gian, sớm tối gắn bó chung hưởng hạnh phúc với người, cũng “vui thú như khi còn sống”. Ở đây, ranh giới thực ảo trở nên mờ nhoè. Sự hiện hình của hồn ma là để tiếp tục tình duyên, kiếp sống dang dở. Hồn ma Hưng Nương vì mối trần duyên chưa dứt, nhập vào thân xác em gái là Khánh Nương, trở lại sống với chồng chưa cưới một năm. Hồn ma Phương Hoa, hồn ma cô gái áo xanh hiện thành người sống với người yêu ba năm… Cho dù thời gian ở nơi dương thế không giống nhau, cũng không quá nhiều ngày tháng, nhưng đó là thời gian của một cuộc hôn nhân, thời gian của số mệnh con người. Khi duyên số hết, tình vợ chồng hết, họ lại phải ly biệt. Nhưng nhân vật người – chàng trai trong truyện, đã thật sự thoả mãn với hạnh phúc, đã quên mọi khát vọng, mọi vấn đề khác trong cuộc đời. Vì vậy, sau phút chia ly, các chàng trai đều tự nguyện sống chung thuỷ, ước hẹn tái ngộ. Triệu sinh (Ái Khanh truyện) tìm đến nhà người họ Tống xin được coi như chỗ họ hàng để được gặp mặt, thăm hỏi người vợ đã đầu thai kiếp khác. Đằng Mục (Đằng Mục tuý du Tụ Cảnh viên ký) “suốt đời không lấy ai, vào núi Nhạn Đãng hái thuốc rồi không về nữa”. Triệu Nguyên (Lục y nhân truyện) không lấy vợ nữa mà tới chùa Linh Ẩn xin xuất gia làm sư đến trọn đời.
Như thế, các nhân vật nam trong mỗi tác phẩm ở TĐTT, trước khi đến với cuộc kỳ ngộ là người có nỗi đau khổ hoặc dở dang tình yêu, hạnh phúc nên khát vọng ái ân còn chưa thoả. Gặp lại người có duyên tiền định với mình, tất cả đều thoả nguyện. Tình yêu của họ không phụ thuộc tiền bạc, địa vị xã hội. Hạnh phúc của họ vượt trên bất hạnh của số phận, của cái chết; vượt qua tai hoạ bởi thế lực thống trị bạo tàn. Các truyện viết về các mối tình người và hồn ma đã đưa người cõi âm xâm nhập thế giới thực tại, đã hiện thực hoá thế giới kỳ ảo. Chính vì thế, lại khiến cho cái hiện thực trở thành chuyện không thể có. Tình yêu và hạnh phúc ân ái giữa người và hồn ma vừa là chuyện tưởng tượng nhằm thoả mãn khát vọng hạnh phúc (dù thật mong manh!), hoặc giải toả nỗi uất ức của cuộc đời bất đắc chí nhưng lại vừa là sự phủ định chính giải pháp này.
Trong mỗi câu chuyện về “sự hoà hợp bí ẩn” hoang đường ấy, dường như con người đã đạt đến sự tự do tâm linh trong việc đi tìm hạnh phúc. Nhưng ngay cả lối thoát này cũng dẫn đến ngõ cụt, bởi không có hạnh phúc trọn vẹn, mãi mãi. Đó chỉ là mộng tưởng - dù tác phẩm không viết về giấc mơ. Khi hồn ma không thể tiếp tục ở chốn dương gian, người đọc bừng tỉnh, cắt đứt dòng tưởng tượng gắn với quan niệm “văn hoá thần bí” của người Trung Hoa. Nhưng dù muốn hay không, các chàng trai trong truyện đã không thể trở về với đời sống thực tại của mình mà lại gửi tình sơn thuỷ, chùa chiền... Kết thúc câu chuyện là kết quả của sự đan xen nhiều giải pháp, nhiều tư tưởng và tôn giáo nhằm bù đắp sức mạnh tinh thần trong việc phủ định cuộc sống thực tại.
Chàng trai
Mỹ nhân
Sắc đẹp quyến rũ
Sợ hãi chạy trốn
Hậu
quả xấu
Đam mê nhục dục
Biết là ma
Ba truyện trong TKML cũng viết về tình yêu của các chàng trai với các hồn ma, cũng là chuyện tưởng tượng nhưng tình tiết diễn ra hợp với logic tâm lý con người. Tình yêu nam nữ là chuyện bình thường của người đời. Nhưng tình yêu của nam nhân với hồn ma là chuyện không bình thường, chuyện quái đản. Không biết là ma bởi bị mê hoặc; còn đã biết thì không thể không sợ "sởn gai dựng tóc", không trốn chạy và đã bị ma làm thì khó tránh được tai hoạ. Cả ba truyện của Nguyễn Dữ có thể khái quát theo mô hình sau:
Đó cũng là mô hình của truyện thuộc nhóm 2 trong TĐTT. Nhưng ở những truyện của Nguyễn Dữ, các chàng trai đều là nhưng người tuổi trẻ, đang ở trong cơ hội thành đạt. Cuộc đời mỗi người chưa rơi vào sự mâu thuẫn giữa hiện thực và ước nguyện, cũng không gặp những bế tắc cần tìm phương cách giải toả. Hà Nhân (Tây viên kỳ ngộ ký) là học trò lên kinh sư tìm thầy học để chuẩn bị ứng thí. Trình Trung Ngộ (Mộc miên thụ truyện) là “một chàng trai đẹp, nhà rất giàu, thuê thuyền xuống vùng Nam buôn bán”. Viên quan họ Hoàng (Xương Giang yêu quái lục) người Bắc Giang, xuống kinh đô nhận chức. Gặp mỹ nhân, sự đam mê nữ sắc biến thành sức lôi cuốn mạnh mẽ, khó cưỡng lại.
Hà Nhân bèn rủ hai cô gái về nhà trọ; Trình Trung Ngộ đưa cô gái xuống thuyền của mình; viên quan họ Hoàng đưa cô gái đi theo… Ở đây, đến với tình yêu trai gái, nhân vật nam không phải phấn đấu trên con đường đi tìm hạnh phúc; cũng không tự giác nhận thấy mình đã tìm được giá trị đích thực, nguyện đem đánh đổi tất cả để giữ lấy nó. Với họ, chỉ đơn giản là chạy theo sự cám dỗ, đắm đuối trong hành lạc mà quên đi, đánh mất đi mục đích của mình, thậm chí đánh mất cả mạng sống.
Cuộc kỳ ngộ giữa các chàng trai và hồn ma trong TKML phần lớn chỉ diễn ra vào ban đêm trong thời gian ngắn ngủi. Hàng đêm, Hà Nhân dan díu với hai hồn ma (Đào nương, Nhu nương) trong gần một năm. Đêm đêm Trình Trung Ngộ qua lại với hồn ma Nhị Khanh hơn một tháng. Riêng Xương Giang yêu quái lục viết: một đêm, Hoàng thấy người con gái ngồi bãi cát phía đông nam khóc ai oán, kể về cảnh ngộ. Thương cô gái bơ vơ chịu nhiều đau khổ, anh ta giúp nàng thu nhặt hài cốt cha mẹ đưa về quê nàng. Tuy chưa ân ái để truyền sức sống cho người đã chết, nhưng vì Hoàng đã không quản công sức, tiền của làm ơn nhục cốt sinh tử, khiến cho “xương khô sinh thịt, người chết sống lại”. Thị Nghi thành vợ Hoàng, cuộc sống vợ chồng gắn bó. Như vậy, ở truyện này có trùng lặp một chi tiết của truyện nhóm 1 trong TĐTT. Nếu như các đôi "chồng người vợ ma" trong TĐTT, người chồng thoả nguyện với hạnh phúc và không bị nhiễm khí yêu ma thì truyện của Nguyễn Dữ viết, Hoàng mới sống chung được một tháng, mắc bệnh điên cuồng hoảng hốt. Đạo sĩ yểm bùa, chữa được bệnh cho Hoàng, Thị Nghi thành ra đống xương trắng. Sau đó hơn một tuần, anh ta bị bắt xuống điện Diêm vương tra xét. Án phê rằng “bỏ nết cương thường, theo đường tà dục, giảm thọ một kỷ”. Hoàng đã bị trừng phạt.
Nhiều người nói về Mộc miên thụ truyện trong TKML mô phỏng theo Mẫu đơn đăng ký trong TĐTT. So về cốt truyện thì dường như truyện của Nguyễn Dữ “là sự tái hiện nguyên bản” (Trần Ích Nguyên) truyện của Cù Hựu. Nhưng phân tích cụ thể sẽ thấy thay đổi thể hiện sự tinh tế của nhà văn họ Nguyễn. Xin được trình bày bảng đối chiếu sau đây:
Đối tượng so sánh
Mẫu đơn đăng ký
Mộc miên thụ truyện
Nhân vật
Trai goá vợ
Thương nhân
Vật dụng
Đèn lồng hình 2 bông mẫu đơn
Một cây hồ cầm
Nơi giao hoan
Nhà Kiều Sinh
Thuyền củaTrình Trung Ngộ
Nơi có bài vị
Chùa mé Tây nguyệt hồ
Túp nhà gianh nhỏ ngoài đồng
Cách phát hiện
Ông già nhìn thấy bộ xương ngồi với Kiều sinh, cảnh báo. Kiều sinh đến chùa thấy quan tài
Bạn buôn nhắc nhở cẩn thận, Trình được dẫn đến túp nhà gianh thấy quan tài
Lý do tiếp tục gặp gỡ
Say rượu rẽ nhầm vào chùa giữa hồ
Hồn ma gọi, đi theo
Kiểu chết
Quan tài tự mở nắp, hồn ma kéo vào, Kiều Sinh chết úp vào xác cô gái, nắp liền đậy lại ngay
Trình ôm quan tài mà chết
Nơi trú ngụ
Hiện hình trong làng
Chùa có cây gạo bên sông
Trừng phạt
Bị đánh máu túa dầm dề, giải tới ngục âm cung
Trên không có tiếng roi vọt, lính đầu trâu mặt ngựa gông trói dẫn đi
Như vậy, trong Mộc miên thụ truyện chỉ trừ chi tiết Nhị Khanh chết đã nửa năm mà quan tài vẫn quàn ngoài đồng ngay bên cạnh làng là chuyện không từng có ở ta. Còn các chi tiết khác so với Mẫu đơn đăng ký đều đã đổi khác để phù hợp với hiện thực đời sống, quan niệm, tâm lý người Việt. Có thể nói, trong TKML Nguyễn Dữ  thể đã tiếp thu truyền thống truyện truyền kỳ Trung Hoa từ Đường, Tống, Nguyên, Minh… Nhưng sáng tác dân gian, văn học nhiều thế kỷ của dân tộc cũng là suối nguồn cung cấp cho Nguyễn Dữ rất phong phú những cốt truyện, môtip, chi tiết ly kỳ (lấy vợ kỳ dị, hồn ma hiện hình, người bị ma làm, loài vật thành tinh, thần cây đa ma cây gạo. sự trừng phạt của Diêm vương...).
IV. Trong Mẫu đơn đăng ký chưa kể đến ba trang miêu tả việc đạo nhân trừ ma tà thì hệ thống chi tiết trong truyện cho thấy Cù Hựu đã dụng công tạo nên sự ly kỳ, rùng rợn gây cảm giác ghê sợ hãi hùng cho người đọc. Thái độ tác giả TĐTT phê phán, trừng phạt thói tham nữ sắc của gã đàn ông mới goá vợ, cũng là cảm hứng của nhà Nho, nhà đạo đức Nguyễn Dữ đã thể hiện trong Mộc miên thụ truyện và Xương Giang yêu quái lục. Thái độ phê phán, răn đe của tác giả họ Nguyễn không chỉ được thể hiện qua hình tượng nghệ thuật, qua bài học mà độc giả tự ngẫm thấy trước kết cục số phận của nhân vật, sau mỗi truyện của TKML đều có lời bình, ví dụ:
"Xem thấy yêu nữ mê người, sẽ biết răn sợ trước sắc đẹp" (Xương Giang yêu quái lục). Đây là lời phát ngôn trực tiếp, mang tính chất thuyết lý định hướng giáo dục, cảnh giới con người trước bờ vực của sự sa đoạ.
Tuy nhiên, trong sáng tác của nhà văn họ Nguyễn không phải chỉ có phê phán mà còn có sự đồng cảm, chia sẻ. Thái độ đó thể hiện tập trung trong Tây viên kỳ ngộ ký. Nguyễn Dữ đã dành 11/16 trang viết miêu tả những cuộc gặp gỡ hoan lạc giữa các nhân vật bằng những lời văn dạt dào cảm xúc yêu đương. Từ sự e lệ, thẹn thò của Nhu nương, Hồng nương trong buổi đầu gặp gỡ đã bị Hà Nhân lả lơi cợt ghẹo, đến những lời hoa ý gấm tả chuyện chốn buồng xuân khi cả ba trải cuộc mây mưa thoả nguyện. Yêu đương, hờn dỗi, ghen tị… là những cảm xúc thường có trong một cuộc tình tay ba cũng được viết rất hấp dẫn, ý nhị. Khi Hà Nhân phải về quê, nâng chén tiễn biệt, hai nàng đã viết bài ca tha thiết mang nỗi đau buồn, nhớ nhung không dứt, khiến chàng rưng rưng đôi hàng nước mắt. Hoãn việc hôn nhân do cha mẹ định sẵn, chàng Nho sinh họ Hà lại lên đường tới kinh, gặp lại giai nhân. Tình son phấn nồng nàn khiến chí bút nghiên chán nản. Mọi trạng thái tâm tư yêu đương của lứa đôi tuổi trẻ đã được Nguyễn Dữ viết một cách say sưa bằng những lời đẹp đẽ. Không thể không nói rằng: nhà văn họ Nguyễn đã thể hiện trong sáng tác của mình một sự đồng cảm, ngợi ca tình yêu – hạnh phúc trần thế, tự nhiên của con người, của tuổi trẻ vượt qua khỏi sự ràng buộc của quan niệm, tập tục, đạo đức, lễ nghi phong kiến…, phản ánh một góc nhìn mang tư tưởng nhân văn.
Tiết đông lạnh, Đào nương, Nhu nương khóc chia tay rồi không đến nữa. Sinh mới biết lâu nay mình đánh bạn với hồn hoa. Sự thác hoá của hồn cây, ma hoa là trở lại sự phân biệt hai thế giới âm và dương, hai cõi sống và chết. Trong truyện Tây viên kỳ ngộ ký,người vẫn là người, hồn ma vẫn là ma. Người bị hồn ma quyến rũ trở nên u mê, kẻ lòng nhiều vật dục nên chạy theo lối sống buông thả. Đó là chuyện quái đản. Kết thúc tác phẩm không thấy tác giả viết về việc Hà Nhân bị nhiễm khí yêu ma nhưng chàng đã dở dang công danh và lỡ làng hôn sự. Dễ dàng nhận thấy thái độ nương nhẹ của Nguyễn Dữ trước sự tha hoá của tầng lớp nho sinh trong trào lưu suy đồi lối sống, đạo đức của nhiều tầng lớp trong xã hội. Bài học rút ra là: người quân tử phải tránh con đường nhỏ, quá ham mê với điều nhỏ sa lầy với nó, sẽ mất đi những điều lớn trong cuộc đời.
Trong quan niệm của Nguyễn Dữ, lối sống phóng đãng, mải mê hành lạc của con người là hành vi sai lạc. Đắm chìm trong ham muốn sắc dục, con người sẽ rơi vào sự lệch chuẩn với đạo lý, cương thường; dần bỏ đạo đức tốt đẹp mà đến với cái xấu xa, đáng ghê sợ; có khi dần xa sự sống mà gần cái chết. Đó là tai hoạ do sự tha hoá nhân cách.
Từ những nội dung trên, xin được rút ra một số điểm như sau:
1. Với văn học trung đại, thể loại là một phạm trù quan trọng, thường được xác định ngay ở tên gọi tác phẩm. Ba tác phẩm viết về chuyện tình giữa người và hồn ma trong TKML cũng đã được ghi rõ: Tây viên kỳ ngộ ký, Mộc miên thụ truyện, Xương Giang yêu quái lục. Nhưng văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại có đặc điểm: “ranh giới giữa truyện và ký hết sức mờ mỏng”(3). Khảo sát nội dung và nghệ thuật của ba tác phẩm trên cho thấy, mặc dù được xếp ở ba loại hình khác nhau (ký, truyện, lục), nhưng trong TKMLký và lục đều thuộc thể loại truyện. Ba thiên này thực chất đều là những truyện ngắn nghệ thuật đặc sắc – tác phẩm văn học kỳ ảo.
2. Văn học kỳ ảo phản ánh sự phong phú, kỳ diệu, không giới hạn của trí tưởng tượng, của ảo giác con người. Nội dung những truyện trên đều rất ly kỳ. Nhưng lại là những điều nghi suy nảy sinh từ cuộc sống hiện thực, được trình bày với muôn hình vạn trạng, biến huyễn lạ lùng, thực hư khó phân biệt. Đó không chỉ là sự thích thú thêu dệt của người sáng tạo mà còn là nhu cầu tiếp nhận của độc giả. Bởi con người không chỉ sống với thực tại mà còn cần sống với tưởng tượng, mộng ảo nhằm thoả mãn khát vọng của mình bằng những việc không có thực, bù đắp cho sự cân bằng tất yếu trong cuộc sống.
3. Văn học kỳ ảo phản ánh sự phức tạp trong tư tưởng con người. Chuyện tình giữa người và hồn ma chỉ là chuyện có trong trí tưởng tượng. Viết về chuyện ma để đạt đến sự thoả mãn hiện thực bằng những việc không có thực. Đó là hoạt động, là trạng thái tư tưởng ở dạng thay thế.
Còn nghi hoặc về chuyện có ma mà vẫn tin là có ma quyến rũ, mê hoặc.  Sợ ma mà lại thấy ma đẹp và có thể đem lại hạnh phúc cho con người. Tin rằng bị ma làm là tai hoạ nhưng vẫn được coi là cách để con người vượt qua nhiều đau khổ trong cuộc sống thực tại. Ở những câu chuyện này, ma vừa là người đã chết, là yêu quái… nhưng cũng chính là hình tượng phúng dụ để nói đến sức lôi kéo và sự nguy hiểm của lối sông buông thả, phóng đãng trong hưởng lạc của con người trước những cám dỗ vật chất của cuộc đời. Đó là hình tượng thực hiện chức năng giáo huấn của văn học.
Viết về chuyện tình giữa người và hồn ma, các tác giả (cả Cù Hựu, cả Nguyễn Dữ) đều thể hiện nhiều quan niệm, vừa khẳng định vừa phủ định; vừa phỉ báng vừa ngợi ca. Bởi mỗi người đều đồng thời xuất phát từ nhiều điểm nhìn trước những vấn đề của cuộc sống hiện thực. Đặc biệt, ở TKML nhóm tác phẩm này đã thể hiện sự mâu thuẫn, rạn vỡ trong tư tưởng của Nguyễn Dữ, giữa nhà đạo đức, nhà Nho họ Nguyễn với nhà văn có tư tưởng tiến bộ của thế kỷ XVI. Trong sáng tác, cả hai tư tưởng đều mạnh mẽ, sâu sắc và quyết liệt.
4. Khảo sát về các truyện của Cù Hựu và của Nguyễn Dữ, cần phải lý giải “cảm giác quen quen nhưng nếu muốn chỉ ra xem nó giống truyện nào của TĐTT thì không thật dễ” (Trần Ích Nguyên). Không phải chỉ cho rằng Nguyễn Dữ đã chịu ảnh hưởng nhiều từ sáng tác của Cù Hựu (do tiếp thu tình tiết, mô típ và bút pháp thể loại…), nhưng vẫn thể hiện sức sáng tạo khéo léo và tài năng nghệ thuật của mình. Mà còn phải quan tâm đến một hiện tượng có tính quy luật của văn học trung đại. Đó là nhiều mô típ folklore, các type truyện dân gian của Việt Nam, Trung Quốc khá gần gũi nhau. Đó cũng là hiện tượng tồn tại trong nhiều nền văn học thế giới. Nhưng từ hiện thực mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa với sự lựa chọn và sáng tạo lại của những tài năng tuyệt vời, sự hiện diện của những mô típ đó rất phong phú, linh hoạt, mới mẻ. Từ những nét chung và riêng của các chuyện tình giữa người và hồn ma trong TĐTT và TKML, có thể khẳng định những đóng góp về nội dung và nghệ thuật tạo nên sự đa dạng của hệ thống truyện ngắn truyền kỳ viết về đề tài này trong khu vực.
TĐTT là thành tựu của truyện truyền kỳ Trung Hoa thế kỷ XIV và TKML là thành tựu đặc sắc của truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại./.
                                                                    Hà Nội, tháng 5 năm 2006
______________
(1) Xin xem Phạm Tú Châu: Về mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lụcTạp chí Văn học, số 3-1987, tr.71-78.
(2) Tham khảo Toàn Huệ Khanh: Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam. Nxb. ĐHQG Hà Nội, 2004, 204 trang.
(3) Nguyễn Đăng Na: Văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại, Tập II. Nxb. Giáo dục, H, 2001.
- Trần Ích Nguyên: Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục. Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000.


Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 4-2007

Cổ tích hiện đại: "Cô bé bán diêm" của Andersen


PGS.TS. Lê Huy Bắc
Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội

    
1. Nhân vật duy nhất
Tác phẩm chỉ có một nhân vật. Đấy là cô bé bán diêm. Cô bé không có tên. Người kể dùng ngay công việc (bán diêm) để gọi tên nhân vật. Cách đặt tên này đã cho thấy dụng ý: nhấn mạnh nỗi thống khổ của một con người, còn bé mà phải đi bán diêm để kiếm sống. Hoàn cảnh và cuộc đời ấy thật đáng thương tâm. Không có tên, em bé ấy sẽ mang giá trị ẩn dụ lớn. Em đại diện và gợi nhớ đến vô vàn các em bé nghèo khổ như em.
Ngoài cô bé, truyện còn nhắc đến ba người thân trong gia đình em là bà, bố và mẹ. Những nhân vật này không được miêu tả trực tiếp trong tác phẩm mà chỉ được kể gián tiếp qua trang phục (bé đi giầy của mẹ), suy nghĩ (về bố) và tưởng tượng (về bà). Người kể chỉ nhắc đến mẹ em bé qua chi tiết em đi lại giầy của mẹ mà không nói rõ người mẹ ấy đã qua đời hay đi lấy chồng khác. Dẫu sao đi nữa thì em bé ấy cũng không có mẹ và kí ức của em chẳng hề lưu giữ kỉ niệm nào về mẹ. Người em yêu thương nhất là bà. Người em sợ nhất là cha. Nhưng bà em đã qua đời. Cảnh ngộ gia đình em thật thương tâm. Em sống cùng cha, người mà lúc nào cũng hiện lên trong tâm trí em với vẻ khủng bố, hung dữ. Truyện mở ra với tình huống gay cấn. Em bé không bán được diêm nên không dám về nhà.
2. Ngôi nhà và quá khứ
Song ngôi nhà ấy không phải là ngôi nhà ấm cúng. Nó lạnh lẽo, tồi tàn không chỉ vì thiếu vắng tình người mà bản thân nó cũng đã dột nát tả tơi. Gọi là nhà nhưng khoảng không mà cha con em bé sở hữu là một gian phòng áp mái, nơi dành cho những người thuê nghèo đến cùng tận. Đây là tâm trạng của em bé: “Vả lại ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác sát mái nhà, và mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở lớn trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà”.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh khổ, con người rồi sẽ quen đi và không có cảm giác quá nặng nề trước những khổ ải mà họ phải hứng chịu. Nhưng đang sống trong ngôi nhà ấm áp, đầy ắp tình thương, đầy đủ về vật chất mà lại bị ném ra đường bơ vơ tự kiếm sống trong thời tiết lạnh giá thì quả thật là quá khủng khiếp. Em bé bán diêm lại ở trong hoàn cảnh nghiệt ngã đó. Tình cảnh của em thật đáng thương tâm. Những người thân yêu lần lượt bỏ em đi. Cha em lại trở nên độc ác. Em không bán được diêm và thậm chí ngay cả đến ngửa tay ăn xin em cũng chẳng có được gì: “không ai bố thí cho một đồng xu nào đem về”.
Thế gian này đã hoàn toàn lạnh lẽo đối với em. Gia đình là cả chốn ngục tù. Nhà em lạnh lẽo giống như ngoài đường phố. Xã hội không chấp nhận, cưu mang một mảnh hình hài đói rét khốn cùng như em. Ở đây tác giả đã sử dụng biện pháp tăng cấp nhằm đưa em bé đến giới hạn tột cùng của nỗi bất hạnh, của sự sống. Thông thường, trong truyện cổ tích, trước cảnh ngộ đó Bụt sẽ hiện lên cứu giúp con người khốn khổ. Thế nhưng câu chuyện phảng phất dư vị cổ tích này lại không phát triển theo hướng đó. Sẽ không có cái kết thúc có hậu dành cho số phận con người. Bởi lúc này, con người trở nên ích kỉ hơn, đầy toan tính hơn.
Dấu ấn hiện đại được đan cài trong tình huống có vẻ như cổ tích ấy là tác giả để cho nhân vật vượt qua giới hạn của sự sống, đến với cõi chết. Một cái chết thê lương trên nền tuyết trắng. Nền tảng cho tính hiện đại ấy là tác giả tiếp tục giữ sự tương phản đã nêu ngay đầu chuyện: một em bé nghèo khổ bơ vơ giữa trời giá lạnh, giữa xã hội không chút tình người.
Thời điểm xảy ra bước ngoặt giữa sự sống, cái chết của em bé, mỉa mai thay, được đặt vào đêm giao thừa. Khung cảnh của đêm giao thừa thì chắc ai cũng biết. Người đi xa tìm về nhà. Không khí gia đình ấm áp, tưng bừng, bận rộn. Người người đi mua sắm nhộn nhịp phố phường... Nhưng đêm giao thừa là đêm bất hạnh của em bé, không chỉ bây giờ mà ngay cả trước đó: “đêm giao thừa mà! Em tưởng nhớ lại năm xưa, khi bà nội hiền hậu của em còn sống, em cũng được đón giao thừa ở nhà. Nhưng Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán, và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh”.
Khoảng cách thời gian về đêm giao thừa hạnh phúc năm xưa đến đêm giao thừa bất hạnh năm nay ắt hẳn chưa phải lâu lắm. Bởi lẽ em bé còn nhớ rất rõ không khí và mùi vị của đêm giao thừa: “Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn” và “trong phố sực nức mùi ngỗng quay”. Những hình ảnh đó cứ lặp lại năm này sang năm khác, trở thành những tín hiệu bất di bất dịch của phong tục cổ truyền. Thế nhưng, trên cái nền yên ả tràn ngập ánh sáng và mùi vị quyến rũ đó, Andersen dựng lên một sự tương phản: em bé phải ngồi ngoài đường giá lạnh đón giao thừa.
3. Lời kể nương theo dòng tâm trạng
Khoảng cách không gian từ nhà ra đường thì ngắn ngủi nhưng khoảng cách tâm trạng thì thật xa vợi vô cùng. Em bé ý thức được điều đó và người kể lại nắm bắt ngay được dòng nội tâm đó để kể lại cho chúng ta câu chuyện đầy thương cảm. Hầu hết câu chuyện được kể nương theo dòng tâm trạng của em bé. Người đọc có thể dễ dàng nhận ra những tín hiệu người kể đang “đọc” suy nghĩ của cô bé bán diêm:
– Chả là đêm giao thừa mà! Em tưởng nhớ lại năm xưa...
– Vả lại ở nhà cũng rét thế thôi...
– Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ?...
– Thật là dễ chịu!...
Có khi người kể còn trực tiếp tái hiện cả lời độc thoại của cô bé lên trang sách: – Chắc hẳn có ai vừa chết, em bé tự nhủ.
Nhờ cách kể này mà người đọc có thể tiếp xúc rõ hơn với cảnh ngộ chua xót của em bé:
“Em ngồi nép trong một góc tường, giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi vào một chút”.
“Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em càng thấy rét buốt hơn”.
“Tuy nhiên, em không thể nào về nhà nếu không bán được ít bao diêm...”.
Cách kể luôn tuân thủ nguyên tắc từ xa đến gần. Thoạt tiên là khung cảnh đêm giao thừa, tiếp đến là em bé ngồi trong góc tường, rồi miêu tả em chống cái rét bằng cách “thu chân vào người”. Những tưởng em đỡ rét thì người kể liên tiếp đưa ra hai liên từ hàm ý phản nghĩa:
– Co chân nhưng vẫn lạnh hơn
– Lạnh hơn tuy nhiên (nhưng) em không thể về nhà...
Người kể vẫn giữ nguyên bút pháp tương phản theo lối tăng cấp. Nếu câu trên chỉ thông báo em bé bị lạnh thì câu dưới ngầm ẩn cái lạnh ấy sẽ tăng thêm vì em không được phép về nhà. Ở câu trên ta cứ ngỡ em bé là kẻ lêu lổng và nguyên nhân em bị lạnh là do em. Nhưng câu dưới đã cho ta biết rõ nguyên nhân khiến em bé lạnh: không phải vì em mà vì cha em (nhất định là cha em sẽ đánh em) và vì cả cái xã hội nhộn nhịp giàu có kia lãnh đạm trước tấm hình hài bé bỏng rét buốt (không ai bố thí cho một đồng xu).
Đến đây ta thấy thân phận cô bé bán diêm hiện lên trong một khung cảnh đối chọi khốc liệt. Một mình cô bé, áo không đủ ấm, đói không có gì ăn, phải chống chọi lại cả khối lạnh lẽo bủa vây từ mọi phía: cái lạnh của nhà em, cái lạnh từ tình cảm cha con, cái lạnh của người trên phố và cái lạnh của giá rét thời tiết. Trong tình cảnh đó, ánh sáng đèn điện và mùi ngỗng quay xuất hiện không những không làm giảm nỗi đói lạnh của em mà còn khiến cái đói lạnh trong em tăng đến tận cùng. Nghệ thuật tương phản ở đây được sử dụng đắc địa:
– Ánh sáng đèn điện trong nhà ấm áp > < Đêm tối ngoài trời giá lạnh.
– Mùi ngỗng quay thơm phức > < Cái đói cồn cào.
Đêm tối, giá lạnh và cái đói, đằng sau là không lối về, chỉ có bức tường lạnh lẽo, lối thoát duy nhất của em bé lúc này là ao ước và mộng tưởng về thế giới khác nơi không còn nỗi đói khổ giày vò em.
Lối kể nương theo tâm trạng của nhân vật đến đây phát huy hết sức mạnh của nó. Xuất phát từ ý tưởng quẹt que diêm để sưởi cho đỡ rét, người kể cho chúng ta thấy giữa đói và rét, cái rét còn khủng khiếp hơn. Tuy nhiên, ta cũng không loại trừ lôgíc thật của truyện vì lúc này trong tay em bé chỉ còn mấy bao diêm. Sức cám dỗ của hơi ấm quả thực lớn: “Cuối cùng em đánh liều quẹt một que”. Điều kì diệu vẫn chưa xảy ra. Chỉ có lối miêu tả hiện thực rất sinh động làm nền cho những gì xảy ra sau đó: “Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt”.
Tác giả dùng đến bốn tính từ để miêu tả ngọn lửa: xanh lam, trắng ra, rực hồng, sáng chói. Xu thế miêu tả là nhằm xóa mờ tính chất thực của ngọn lửa (biến đi, trắng ra, rực, chói) để làm cơ sở cho ảo giác xuất hiện: “Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa hơi nóng dịu dàng”.
Quả là lôgíc, hơi ấm từ ngọn lửa diêm gợi cho cô bé cảm giác được ngồi trước lò sưởi. Sự tưởng tượng đó cũng là dấu hiệu đẩy lùi em bé bán diêm từ từ rời thế giới thực tại bước sang thế giới hư ảo của mình. Quá trình xâm nhập ấy được đánh dấu bằng lời cảm thán: “Chà! Ánh sáng kì dị làm sao!”. Nếu chỉ hơi ấm không thôi thì chưa chắc ảo giác xuất hiện. Vì ảo giác gắn với thị giác nên tác giả phải viện dẫn đến ánh sáng (nhưng phải là ánh sáng kì dị) thì sau đó lò sưởi mới hiện ra. Bút pháp tả thực được vận dụng nghiêm ngặt trong sự miêu tả này. Đúng hơn là có sự đan cài giữa lời miêu tả tâm trí bên trong với lời miêu tả hành động bên ngoài của cô bé (đoạn in nghiêng là lời miêu tả hành động bên ngoài): “Thật là dễ chịu! Đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa; bên tay cầm diêm, ngón cái nóng bỏng lên. Chà! Khi tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng giờ như thế, trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi, thì khoái biết bao!”
4. Ngọn lửa diêm: thực tế và mộng tưởng
Lối kể xen kẽ này có tác dụng rất lớn để đưa người đọc xâm nhập vào thế giới mộng tưởng của nhân vật. Sự chuyển biến từ thế giới bên ngoài vào thế giới tâm trạng của em bé được dẫn dắt dần dần. Người kể đôi lúc dừng lại, nhắc về cảnh ngộ thực tại của em bé: “Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm”. Thực tế đó càng tăng thêm phần nghiệt ngã với em bé và vì thế càng thôi thúc em tìm đến với chốn bình yên: cõi mộng ảo. Ngay sau khi que diêm cháy hết, “lò sưởi biến mất”, em lại tiếp tục quẹt diêm để được sưởi ấm, để được sống trong bầu không khí ấm áp dễ chịu. Các lần quẹt diêm và hiệu quả mà nó mang lại được miêu tả như sau:
Lần
Thế giới mộng tưởng
Thực tế
1
Lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng.
Em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất... Đêm nay về nhà thế nào cũng bị cha mắng.
2
Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa... tiến về phía em bé.
Trước mặt em chỉ còn là những bức tường dày đặc và lạnh lẽo... chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả,... phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu,... khách qua đường, hoàn toàn lãnh đạm với em.
3
Một cây thông Nô-en lộng lẫy hàng ngàn ngọn nến sáng rực, nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ.
Diêm tắt. Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời.
4
Bà em đang mỉm cười với em. Em xin được đi cùng bà.
Diêm tắt và ảo ảnh rực sáng trên khuôn mặt em bé cũng biến mất.
5
Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà nắm tay em rồi hai bà cháu bay vụt lên.
Em bé chết.
Truyện có nhiều hơn năm lần quẹt diêm bởi bốn lần đầu mỗi lần em bé chỉ quẹt một que.
Riêng lần thứ năm, em quẹt liên tục hết cả bao diêm. Mục đích của lần quẹt cuối cùng này là để giữ ảo ảnh lại. Vì qua ánh sáng của que diêm, em bé được gặp bà, được nói chuyện với bà, bởi “em muốn níu bà lại”. Như thế ánh sáng từ ngọn lửa que diêm đảm nhận hai chức năng: vừa sưởi ấm (chức năng này không quan trọng vì ngọn lửa diêm thì quá nhỏ nhoi trước trời tuyết mênh mông) và vừa thắp sáng lên thế giới mộng ảo, cái thế giới mang lại hạnh phúc cho em. Nhưng rồi khi cháy hết, que diêm tắt, em bé chỉ còn lại bóng đêm và nỗi ngỡ ngàng hiu quạnh.
Những trạng từ được sử dụng kèm theo trạng từ “tắt” càng làm tăng thêm nỗi hụt hẫng kia: “lửa vụt tắt”, “que diêm vụt tắt”, “que diêm tắt phụt”. Bốn lần thắp lửa, bốn lần lửa tắt, bốn lần ảo ảnh hạnh phúc vụt qua nhanh. Để níu giữ hư ảnh, diêm phải liên tục được đốt lên tỏa sáng. Niềm hạnh phúc của em bé cũng chỉ nhỏ nhoi như ngọn lửa diêm trong mịt mùng số phận của đêm giao thừa buốt giá. Điều nghịch lí ở đây là: hư ảnh càng được giữ lại, càng rõ nét bao nhiêu thì linh hồn em bé (nếu như có linh hồn), sự sống của em bé càng leo lét, càng rời xa thể xác, xa sự sống bấy nhiêu.
Cuối cùng ngọn lửa ước mơ đã mang em theo cùng bà, người duy nhất em dấu yêu, người duy nhất mang lại hạnh phúc cho em trên cõi đời. Cái chết ấy là sự giải thoát. Khi trần gian là chốn khổ ải vô bờ thì hạnh phúc con người chỉ có được là ở thế giới bên kia.
Toàn bộ câu chuyện là bức tranh sáng tối của một cuộc đời. Điểm khép mở hay cũng chính là vùng giao thoa kia chập chờn theo ngọn lửa diêm tỏa sáng. Trước khi quẹt diêm em bé đã ở vào cảnh ngộ mất bà, mất nhà, mất đêm giao thừa với cây thông Nô-en, phải lang thang dưới trời giá lạnh. Sau khi quẹt diêm, quá trình mất mát đó lại được bù đắp theo chiều ngược lại: diêm sáng, lò sưởi hiện lên, ngỗng quay hiện lên, cây thông Nô-en hiện lên, bà em hiện lên...
Theo lôgíc của dòng vận động ấy, ta cứ ngỡ em bé sẽ tìm được hạnh phúc, sẽ thấy được phép màu của câu chuyện cổ tích hiện ra. Nhưng nếu tỉnh táo một chút ta thấy tất cả bao thứ kia đều không thật. Chúng chỉ là sản phẩm từ trí tưởng tượng của một con người đói lạnh, bơ vơ.
Nhưng có một sự thật nghiệt ngã hơn bao sự thật đấy là trong niềm hạnh phúc hoang tưởng đó, em bé bán diêm vĩnh viễn ra đi. Lần này nỗi hụt hẫng trong chuyện không để dành cho em bé mà giáng xuống người đọc, gây tiếc nuối xót xa.
5. Các kiểu lời văn
Nghệ thuật kể chuyện của Andersen rất tài tình. Không chỉ nương theo tâm trạng nhân vật để từng bước dẫn người đọc vào miền hư ảo mà ông còn tái hiện cả lời nói thành tiếng của em bé để góp phần thể hiện tính cách: Lời độc thoại, lời đối thoại và cả lời người bà đã mất được người kể dẫn trực tiếp qua lời em bé.
Như thế, người kể đã sử dụng nhiều kiểu lời văn, phong phú và rất linh hoạt. Để tiện theo dõi, chúng tôi lập bảng thống kê sau:
TT
Kiểu lời văn
Nội dung
1
Lời miêu tả cảnh vật
Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực... tuyết vẫn phủ kín mặt đất...
2
Lời miêu tả tâm trạng
Chà! Khi tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng giờ như thế, trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi thì khoái biết bao.
3
Lời độc thoại
Chắc hẳn có ai vừa chết.
4
Lời đối thoại (một chiều)
“Bà ơi! – em bé reo lên, – cho cháu đi với... Dạo ấy bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn, cháu sẽ được gặp lại bà...”
– “Chắc nó muốn sưởi cho ấm”.
5
Lời dẫn trực tiếp lời của người bà
“Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế ”.
Chúng tôi đã tập trung phân tích ba kiểu lời trên, hai kiểu lời còn lại, chúng tôi sẽ tiếp tục làm sáng tỏ trong mối quan hệ với nhân vật chính.
6. Em bé và “mọi người”
Em bé bán diêm là nhân vật chính trong truyện. Điểm độc đáo là, toàn thiên truyện, ngoài nhiều người (người kể dùng cụm từ mọi người) xuất hiện ở cuối truyện, còn lại chỉ có một mình em bé, một nhân vật cho toàn bộ câu chuyện! Nếu nhà văn cứ để người kể một mình kể lại các sự việc liên quan đến em bé thì ắt hẳn câu chuyện sẽ nhàm chán vô cùng. Nhằm khắc phục điều đó, Andersen luôn để nhân vật hồi tưởng về quá khứ. Khi kỉ niệm hiện lên, nhà văn không ngần ngại tái hiện ngay dòng suy nghĩ đó lên trang giấy. Điển hình là đoạn em bé reo lên với bà, người đã qua đời: “xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này; trước kia, khi bà chưa về với Thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao!... Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu”.
Việc đưa nhiều kiểu lời văn vào tác phẩm không chỉ tạo sự hấp dẫn, chân thực mà còn góp phần giúp người đọc nắm bắt ngay được tính cách, tâm lí của nhân vật. Suốt cả câu chuyện, không một lần tác giả trực tiếp miêu tả sự ngoan ngoãn hiếu thảo của em bé, nhưng người đọc vẫn nhận ra nét đáng yêu đó từ em qua sự suy tưởng của em về quá khứ, về những hình ảnh hư ảo hiện ra sau ngọn lửa diêm và cụ thể, chính em thừa nhận mình ngoan qua lời cầu khẩn với bà: “Dạo ấy bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn, cháu sẽ được gặp lại bà, bà ơi!”. Như vậy, nếu em bé được gặp lại bà thì chứng tỏ em bé ngoan. Và quả thực em đã gặp được bà, được đi cùng bà, được thỏa mãn ước nguyện.
Những tưởng em bé hạnh phúc nhưng kì thực đấy là con người nhỏ bé bất hạnh nhất. Còn gì phản nhân văn hơn khi con người không khao khát sống mà lại đi ao ước được chết và được thỏa mãn ước nguyện chết ấy? Andersen không phải là nhà văn tàn nhẫn. Ông đã đan cài vào sau sự thỏa mãn phi nhân đạo kia một cái nhìn, một tiếng nói phê phán sâu sắc sự bất nhân mà xã hội dành cho em bé bán diêm.
Và ông cũng không trực tiếp xuất hiện (thông qua lời kể hay lời của bất kì một nhân vật nào đó) để nói lời phản bác hay bày tỏ thái độ xót xa trước cái chết thê thảm của em bé. Lại vẫn là ai đó nói, không có danh tính, “Mọi người bảo nhau: – Chắc nó muốn sưởi ấm!”. Sự tồn tại của xã hội xung quanh em bé là mọi người: số đông, ẩn dụ cho cả khối băng lạnh trong lương tri con người. Thì ra, không phải cái giá lạnh của một đêm chuyển mùa (đêm giao thừa chuyển từ mùa đông sang mùa xuân) giết chết em bé mà chính cái lạnh trong tâm hồn, đạo đức của mọi người kia đã giết chết em. Họ không hề quan tâm, không hề thấu hiểu ngay cả khi em chết.
Thế giới thực, thế giới con người đã hoàn toàn lạnh lẽo với em. Sự chịu đựng của con người tuy lớn lao nhưng bao giờ cũng có giới hạn. Tại thời điểm vạn vật trên trái đất đang âm thầm chuyển mình đón chào những tia nắng của mùa hồi sinh mới thì em bé phải vĩnh viễn ra đi, chìm trong đêm tối tăm buốt lạnh của độ đông tàn. Nghệ thuật tương phản của tác giả đã gieo vào lòng người đọc bao nỗi xót xa, căm phẫn, đã hàm chứa trong nó cái nhìn mỉa mai của một áng văn đẫm màu cổ tích.
Việc người bà nắm tay cháu bay lên là sự giải thoát, là niềm hạnh phúc ta thường gặp trong thế giới cổ tích. Nhưng kiểu kết thúc có hậu của truyện cổ tích là nhân vật bất hạnh được hưởng hạnh phúc, niềm vui sướng ngay tại cõi trần. Sự thay đổi địa vị cuộc sống của nhân vật cổ tích được diễn ra trong sự ngưỡng mộ của mọi người về chân lí thiện thắng ác. Còn kiểu kết thúc có hậu, (ta vẫn có thể gọi như thế) của Andersen là hạnh phúc ở thiên đường nơi chẳng có ai chứng kiến để tôn vinh chuyện ở hiền gặp lành. Sự ra đi của em bé, khát vọng được chết của em là lời lên án sâu sắc nhất cái xã hội phi nhân bản kia.
7. Em bé với nụ cười và đôi má hồng
Cũng vẫn là những hình ảnh tương phản qua lời kể: một bên là khung cảnh thiên nhiên đầy ánh sáng và mọi người, một bên là cảnh ảm đạm của xó tường và em bé:
1. “Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà.
2. “Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa”.
Hai đoạn văn trên được miêu tả theo bút pháp tương phản nhưng vẫn tuân thủ nguyên tắc dựa vào tâm trạng của nhân vật. Ở đoạn 1, người kể nhìn thế giới xung quanh theo tâm trạng của mọi người. Những người này vui vẻ trong ngày đầu xuân nên vạn vật qua cảm nhận của họ là mặt trời “trong sáng”, “chói chang”. Trái lại, ở đoạn 2, khi kể lại chuyện em bé “đã chết vì giá rét” thì người kể lại cảm nhận “trong buổi sáng ấy” cái “lạnh lẽo” của tiết trời. Đặt song song hai cảnh đời bên nhau, Andersen càng tô đậm thêm nỗi bi đát của em bé và sự hững hờ của người đời.
Và ngay câu đầu tiên của đoạn tiếp theo (đoạn cuối), người kể đã chốt lại không khí của hai đoạn vừa nêu bằng câu văn thấm đẫm tình yêu thương dành cho đứa trẻ mồ côi xấu số: “Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm”. Và tái hiện diện mạo em bé khi đã chết bằng hình ảnh trong sáng, thiên thần: “Đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười”. Theo đó, hình dáng “ngày mồng một đầu năm” sẽ là đôi má hồng và đôi môi mỉm cười. Em bé đã trở thành biểu tượng của một năm mới với khát vọng có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Andersen vững tin vào điều đó nên để cho em ra đi trong hạnh phúc, cái hạnh phúc mà em phải tự tạo cho mình trên thế gian, vì “chẳng ai biết cái điều kì diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm”.
Điểm dừng của niềm cảm thông, tin tưởng vào hạnh phúc ở thế giới bên kia của câu chuyện cũng chính là điểm mở ra những vấn đề chua chát, thẳm sâu trong tận cõi nhân sinh. Chẳng một ai thấu hiểu em bé. Chẳng ai biết niềm mong ước của em: “Chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa”. Em chẳng biết tìm đâu ra lời giải đáp. Và mỉa mai thay, lời nguyện ước của em chỉ có được khi ở thế giới bên kia: từ cõi chết.
Câu chuyện thấm đẫm hương vị cổ tích về em bé bán diêm khép lại với bao buồn vui lẫn lộn. Ta mừng vì em bé gặp được bà, niềm hạnh phúc duy nhất trong đời, ta mừng vì em đã nở nụ cười khi giã từ cuộc đời, song lại mãi day dứt vì tại sao ước mơ nhỏ nhoi về cái ăn, về ngọn lửa sưởi ấm ấy lại không đến với em, bừng sáng thành bếp lửa lớn mà chỉ leo lét theo ngọn lửa diêm chóng tàn giữa trời giá rét. Dẫu sao thì tuy ngắn ngủi nhưng những que diêm ấy vẫn thắp sáng được ước nguyện cuối cùng của con người khốn khổ: em bé với nụ cười và đôi má hồng./


Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 7/2007